TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 116/2023/DS-PT NGÀY 18/05/2023 VỀ TRANH CHẤP QSDĐ; YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CHIẾM ĐẤT, THÁO DỠ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG TRÊN ĐẤT VÀ YÊU CẦU HUỶ GCNQSDĐ
Ngày 18 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 48/TLPT-DS ngày 10 tháng 4 năm 2023 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất;yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, yêu cầu hủy Giấy CNQSD đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2008/2023/QĐPT-DS ngày 24 tháng 4 năm 2023; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Võ Minh Q-sinh năm 1959; Địa chỉ: thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có mặt,
2. Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Văn H-sinh năm 1965, bà Nguyễn Thị P C-sinh năm 1965; Địa chỉ: tỉnh Phú Yên. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.2. Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, Phú Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1978 - Công chức Tư pháp xã H, huyện T. Có mặt.
3.3. UBND xã HP, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.4. Bà Nguyễn Thị Ngọc D - sinh năm 1960; Địa chỉ: 32 L, Phường 7, TP T, Phú Yên. Vắng mặt.
3.5.Anh Võ Sĩ N - sinh năm 1982; Địa chỉ: 32 L, Phường 7, TP T, Phú Yên. Vắng mặt.
3.6. Chị Võ Nguyễn Hoài N - sinh năm 1979; Địa chỉ: tỉnh Ninh T. Có mặt.
3.7. Anh Võ Nguyễn Minh H - sinh năm 1984; Địa chỉ: Phú Yên. Vắng mặt.
3.8. Anh Ngô Đ T - sinh năm 1985; Địa chỉ: tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
Các anh N, H, T đều ủy quyền cho nguyên đơn: ông Võ Minh Q. Có mặt.
- Người có kháng cáo: Nguyên đơn ông Võ Minh Q
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ông Võ Minh Q trình bày: Năm 1989 thực hiện chủ trương trồng cây gây rừng theo Quyết định số 184-HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng rừng và Thông tư số 46-TT/HTX ngày 13/12/1982 của Bộ lâm nghiệp hướng dẫn thực hiện Quyết định số 184-HĐBT, hộ gia đình ông được giao đất để trồng rừng tại khu vực Núi H và khu vực Núi S với diện tích 5,1 ha đất theo Quyết định số 79/QĐ-UB ngày 18/11/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Khánh. Theo đó ngày 17/11/1989, Hạt kiểm lâm đã cấp Sổ lâm bạ cho gia đình ông đứng tên Võ Minh Q với diện tích 5,1 ha, trong đó ghi rõ đất được giao ở hai khu vực Núi H và Núi S. Riêng diện tích đất ở Núi S mặc dù không ghi rõ về diện tích đất được giao nhưng có xác định cụ thể về tứ cận: Bắc giáp vườn rừng ông G, Tây giáp xóm nhà đội 1, Đông giáp Núi S, Tây giáp trục đường; đồng thời Sổ Lâm bạ cũng ghi rõ “Kế hoạch sản xuất đất Lâm nghiệp” với thể loại cây Bạch đàn theo thời gian: Năm 1989 trồng 02 ha, năm 1990 trồng 3,1 ha và năm 1991, 1992 trồng dặm trên toàn bộ diện tích 5,1 ha cho cả hai khu vực trên.
Năm 1993, do lũ lụt làm hư hỏng hệ thống kênh mương thủy lợi nên UBND huyện T đã dùng đất trên diện tích đất được giao cho hộ gia đình ông tại khu vực Núi S để phục hồi, sửa chữa kênh mương. Trong khi lấy đất UBND xã HP và đơn vị thi công có trao đổi, bàn bạc và bồi thường cho hộ ông thiệt hại về cây trồng, đất bị trưng dụng một khoản tiền. Sau khi công ty ngừng thi công, gia đình ông đã bỏ công và tiền bạc để trồng cây lại trên diện tích đất này và tiếp tục sử dụng.
Năm 2003, UBND xã HP tự ý dùng một phần diện tích đất của hộ gia đình ông đang sử dụng để cho ông Nguyễn Đ T thuê xây dựng nhà máy xay xát gạo, ông đã khiếu nại UBND và được UBND xã trả lời tại Quyết định số 17/QĐ-UB ngày 17/4/2003 với nội dung: “UBND xã có thừa nhận thiếu sót vì không nắm được phần diện tích đất này trước đây UBND huyện T đã cấp cho ông Q năm 1989” và “Công nhận nội dung đơn khiếu nại của ông khiếu nại UBND xã cho thuê mặt bằng xây dựng nhà máy xay xát gạo trên phần đất lâm nghiệp đã cấp cho hộ gia đình ông trình bày trong đơn là đúng”.
Năm 2016, vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C tự ý xây dựng nhà trên diện tích đất được giao cho hộ gia đình ông tại khu vực Núi S. Ông đã báo cáo Ủy ban nhân dân xã H, cán bộ địa chính lập biên bản nhưng vợ chồng ông H, bà C vẫn tiếp tục xây dựng.
Nay ông khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông H, bà C chấm dứt hành vi chiếm đất, tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, trả lại đất cho hộ gia đình ông và yêu cầu hủy hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 369372, CA 369323 do UBND huyện T cấp ngày 07/02/2017 cho vợ chồng ông H, bà C tại các thửa 392, 393, tờ bản đồ 9 - C loại đất ở nông thôn.
- Bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C trình bày: Năm 2002, UBND xã H có thông báo cho thuê phần đất đang tranh chấp (lúc này trên đất chỉ có cây dại, xương rồng và hầm nước) nhưng khi ông bà ra liên hệ thuê đất thì UBND xã H không cho thuê nữa mà bán đất nên cuối năm 2002 bà mua đất do UBND xã H bán diện tích 400m2, có giới cận: Đông giáp nhà máy gạo của ông T (do Uỷ ban xã H cho thuê), Tây giáp đất xã H quản lý, Bắc giáp lò gạch ông Bênh do UBND xã H cho thuê, Nam giáp đường bê tông. Năm 2007 UBND xã H giao đất trên thực địa và ông bà quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Năm 2016 ông bà cất nhà trên đất thì ông Võ Minh Q có tranh chấp. Ngày 16/01/2017 ông bà được Uỷ ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 400m2. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông bà không chấp nhận.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+Uỷ ban nhân dân huyện T trình bày ý kiến: Về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND huyện giữ nguyên quan điểm tại phần kết quả xác minh trong Công văn số 770/UBND/TNMT ngày 01/9/2016 để trả lời kiến nghị của bà Nguyễn Thị P C cụ thể, qua xác minh ông Q không cung cấp được các giấy tờ có liên quan đến nguồn gốc sử dụng đất đối với vị trí đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H và bà C. Ngoài ra, phần diện tích đất này đã được UBND xã H giao đất có thu tiền sử dụng đất cho vợ chồng bà ông H, bà C trước đây là đất do UBND xã quản lý, không chồng lấn trên đất thuộc sổ lâm bạ của ông Q đang sử dụng trồng cây lâm nghiệp tại Núi S, thôn T, xã H, huyện T, Phú Yên. Vì vậy việc ông Q yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho vợ chồng ông H, bà C là không có cơ sở.
+ Ủy ban nhân dân xã H trình bày: Nguồn gốc đất mà hiện nay các bên đang tranh chấp do UBND xã H quản lý thuộc thửa 9-C, tờ bản đồ 55 bản đồ địa chính năm 1996. Năm 2016 (bản đồ đo theo hiện trạng) thuộc thửa số 21 diện tích 8953,5m2, tờ bản đồ số 19 (đất phía Tây đường bê tông lúc này mặc dù có nhà máy gạo rồi nhưng khi đo không giải thửa cụ thể mà đo chung và xác định là đất trồng cây lâu năm, còn toàn bộ diện tích đất phía Đông đường bê tông thì không thể hiện trên bản đồ. Năm 2003, thực hiện chủ trương khép kín khu dân cư, UBND xã H bán đất cho bà Nguyễn Thị P C diện tích 400m2, với giá 20.000.000đ. Phần đất có nhà của bà C được đăng ký tại sổ Mục kê, trang số 101, thuộc thửa 55, nằm trong diện tích 14.992m2 đất núi thuộc UBND xã H quản lý, thuộc tờ bản đồ số 9-C đo đạc năm 1996. Ngày 07/02/2017 ông H, bà C đã được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 400m2 tại thửa 392, 393, tờ bản đồ 9-C loại đất ở nông thôn.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Minh Q thì vào năm 1987 thực hiện dự án giao vườn rừng Nhà nước đã giao cho 07 hộ dân thứ tự từ hướng Bắc sang hướng Nam gồm: Võ P, Ngô G, Võ Minh Q, Nguyễn Ngọc V, Võ Văn B, Nguyễn P, Nguyễn Hồng , mỗi hộ được giao 01 lô diện tích từ 0,1ha đến 0,2ha tại thửa 55 diện tích 14.992m2. Phần đất ông Q được cấp theo Sổ Lâm bạ có giới cận: Bắc giáp đất ông Nguyễn G, Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc V, Đông giáp Núi S, Tây giáp Xóm nhà đội 1, thời điểm giao có kèm theo bản đồ giao đất xây dựng vườn rừng (vẽ tay). N vậy phần đất giao cho ông Q theo sổ lâm bạ không bao gồm phần đất có đất đang tranh chấp hiện nay. Năm 1993, có việc lấy đất để đắp kênh mương thì thời điểm này do UBND xã HP quản lý.
+ Ủy ban nhân dân xã HP trình bày:
Năm 1993 có trận lũ lụt lớn tại địa phương nên tuyến đường ĐT-645 (nay là quốc lộ 29) và bờ kênh mương chính Nam bị hư hỏng nặng vì vậy năm 1994 các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành lấy đất, đá tại hòn S để sửa chữa, sang lấp. Tại thời điểm này hòn S do UBND xã HP quản lý, không giao cho cá nhân, tổ chức sử dụng nên khi khai thác đất, đá nhà nước không phải thực hiện công tác bồi thường. Tháng 8 năm 1994 xã HP được tách thành 02 xã gồm xã HP và xã H, 2/3 diện tích hòn S thuộc địa giới quản lý hành chính của xã HP. Từ khi chia tách xã đến nay hòn S Nhà nước không giao đất rừng sản xuất cho cá nhân, hộ gia đình nào trên địa bàn xã. Theo hồ sơ địa chính tại địa phương thì phần đất mà ông Q xác định ông đang quản lý sử dụng là đất đồi núi chưa sử dụng do UBND xã HP quản lý thuộc thửa 507, tờ bản đồ 9C năm 1996 diện tích 19.003m2, năm 2016 thuộc tờ bản đồ 11 đất lâm nghiệp không thể hiện số thửa và diện tích (bản đồ này đo theo hiện trạng nên vẫn là đất đồi núi chưa sử dụng). Theo ông Q trình bày đất này ông quản lý sử dụng từ năm 1989 tuy nhiên từ đó cho đến nay ông Q không đăng ký kê khai nên đất này vẫn là đất do UBND xã HP quản lý.
Biên bản làm việc ngày 06/6/2022 do UBND xã HP lập chỉ thể hiện nội dung là ông Q cho ông Nguyễn Nhật Tây thuê để tập kết cát, UBND xã làm việc yêu cầu ông Q và ông Tây trả lại hiện trạng ban đầu không được tập kết cát, quá trình làm việc ông Q trình bày đất này ông được cấp theo sổ lâm bạ nên UBND xã yêu cầu nếu ông cấp theo sổ lâm bạ thì phải sử dụng đúng mục đích sử dụng đất (lúc này Uỷ ban nhân dân xã HP không kiểm tra Sổ Lâm bạ và cũng không công nhận đất của ông Q theo Sổ Lâm bạ).
+ Bà Nguyễn Thị Ngọc D, anh Võ Sĩ N, chị Võ Nguyễn Hoài N, anh Võ Nguyễn Minh H, anh Ngô Đ T thống nhất ý kiến như ý kiến trình bày của nguyên đơn ông Võ Minh Q.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 12/01/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:
Căn cứ Điều 221 Bộ luật dân sự; Điều 166 Luật đất đai; Điều 157, 165, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Minh Q về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C chấm dứt hành vi chiếm đất, tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, trả lại đất có diện tích 400m2 (đo đạc thực tế 447,4m2) thuộc 392, 393 tờ bản đồ 9-C tọa lạc tại thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên, có giới cận: Đông giáp nhà máy gạo của ông T (do UBND xã H cho thuê), Tây giáp đất trống UBND xã H quản lý, Bắc giáp lò gạch ông Bênh do UBND xã H cho thuê, Nam giáp đường bê tông và yêu cầu hủy hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 369372, CA 369323 do UBND huyện T cấp ngày 07/02/2017 cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C hỗ trợ cho nguyên đơn ông Võ Minh Q số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, về quyền và nghĩa vụ thi hành án, và thông báo về quyền kháng cáo.
Ngày 17/01/2023, nguyên đơn ông Võ Minh Q kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông.
Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Minh Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:
[1] Xét kháng cáo của ông Võ Minh Q; nhận thấy:
[1.1]. Nguyên đơn ông Võ Minh Q trình bày rằng hộ gia đình ông được giao đất để trồng rừng tại khu vực Núi H và khu vực Núi S với diện tích 5,1 ha theo Quyết định số 79/QĐ-UB ngày 18/11/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên), đến ngày 27/11/1989 Hạt kiểm lâm đã cấp Sổ Lâm bạ cho hộ gia đình ông gồm 6 nhân khẩu đứng tên Võ Minh Q với diện tích 5,1ha tại hai khu vực Núi H và Núi S.
- Đối với đất ở Núi H: Diện tích đo đạc thực tế 28.398,5m2 có giới cận: Bắc giáp vườn rừng ông Khánh; Tây giáp đồng trống; Đông giáp HTX HP; Nam giáp vườn rừng ông Thành. Diện tích đất này không có tranh chấp nên ông không có ý kiến gì.
- Riêng đất ở Núi S tại thôn T, xã H, huyện T, Phú Yên ông Q cho rằng được giao theo Sổ Lâm bạ, có giới cận: Bắc giáp vườn rừng ông G, Tây giáp xóm nhà đội 1, Đông giáp Núi S, Nam giáp trục đường và cho rằng ranh giới này được thể hiện tại hai vị trí:
+ Khu đất thứ nhất có diện tích đo đạc thực tế 1.203,4m2 theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/11/2018 của TAND huyện T và bản vẽ ngày 15/8/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên, hiện nay có giới cận: Đông giáp đồi núi S, Tây giáp xóm nhà Đội 1, Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc V, Bắc giáp đất ông Ngô G;
+ Khu đất thứ hai diện tích khoảng 8.000m2 đo đạc thực tế 6.181,5m2, có giới cận: Đông giáp đồi núi S, Tây giáp xóm nhà Đội 1, Nam giáp ruộng, Bắc giáp đất ông Nguyễn Hồng T.
[1.2]. Đối với khu đất thứ nhất:
Theo Biên bản xác minh ngày 21/11/2018 tại UBND xã H, hồ sơ Lâm bạ, bản đồ giao đất xây dựng vườn rừng HTX HP 3 vẽ tay và lời khai những người làm chứng Võ P, Ngô G, Nguyễn Ngọc V, Võ Văn B, Nguyễn P, Nguyễn Hồng T, Phan Hoài L, Trần Ngọc M thì đất tại khu vực núi S có tổng diện tích 14.992m2 thuộc thửa 55, tờ bản đồ 9C được cấp cho 07 hộ dân (mỗi hộ chỉ được cấp một lô đất), có giới cận các hướng Đông, Tây, Nam của 07 hộ được cấp đều thể hiện như nhau, cụ thể: hướng Đông đều giáp đồi núi S, hướng Tây đều giáp xóm nhà đội 1, hướng Nam đều ghi giáp với trục lộ. Tuy nhiên thứ tự 07 hộ được cấp là liền kề với nhau tính từ hướng Bắc sang Nam theo thứ tự là: Võ P, Ngô G, Võ Minh Q, Nguyễn Ngọc V, Võ Văn B, Nguyễn P, Nguyễn Hồng T (mỗi hộ đều ghi rõ diện tích được giao từ 0,1ha đến 0,2ha, riêng hộ ông Võ Minh Q không ghi diện tích riêng khu vực núi S mà ghi chung cả khu vực núi H là 5,1ha).
Tại Sổ Lâm bạ của ông Võ P ghi giới cận đất được giao: Bắc giáp Sông Đà, Tây giáp xóm nhà đội 1, Đông giáp núi S, Nam giáp trục đường; Sổ Lâm bạ của ông Nguyễn Ngọc V ghi giới cận đất được giao: Bắc giáp vườn rừng ông Q, Tây giáp xóm nhà đội 1, Đông giáp núi S, Nam giáp trục đường. N vậy đối chiếu các chứng cứ và qua kiểm tra xem xét hiện trạng thực tế có căn cứ xác định diện tích đất hộ ông Võ Minh Q được giao có giới cận theo Sổ Lâm bạ: Bắc giáp vườn rừng ông G, Tây giáp xóm nhà đội 1, Đông giáp Núi S, Nam giáp trục đường chính là phần đất nằm giữa phần đất của ông Ngô G và Nguyễn Ngọc V có diện tích thực tế 1.203,4m2 (sau khi trừ đi diện tích 10 x 5 = 50m2 là đoạn đường bê tông liên thôn cắt ngang qua đất ông Q được cấp) hiện do ông Q đang quản lý sử dụng và không có tranh chấp, có giới cận: Đông giáp đồi núi S, Tây giáp xóm nhà Đội 1, Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc V, Bắc giáp đất ông Ngô G, hoàn toàn phù hợp với phần thuyết minh bản đồ lô đất rừng của Sổ Lâm bạ do Hạt kiểm lâm huyện T trước đây cấp cho ông Q vào năm 1989.
[1.3]. Đối với khu đất thứ hai gắn với diện tích đất đang tranh chấp; xét thấy: Diện tích đo đạc thực tế 6.181,5m2, có giới cận: Đông giáp đất do UBND xã HP quản lý, Tây giáp đường đi và đất ông Nguyễn Đ, Bắc giáp đất UBND xã H và UBND xã HP quản lý, Nam giáp ruộng và đất xã H quản lý, trong đó có diện tích tranh chấp 400m2 (đo đạc thực tế 447,4m2) có giới cận: Đông giáp nhà máy gạo của ông T (do UBND xã H cho thuê), Tây giáp đất trống UBND xã H quản lý, Bắc giáp lò gạch ông Bênh do UBND xã H cho thuê, Nam giáp đường bê tông, hiện bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C đang quản lý, sử dụng và được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CA 369372 và CA 369323 cùng ngày 07/02/2017 tại các thửa 392, 393, tờ bản đồ 9-C loại đất ở nông thôn.
Khu đất thứ hai này, ông Q cho rằng ông đã được giao tại Quyết định số 79/QĐ-UB ngày 18/11/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Khánh; tuy nhiên căn cứ vào Sổ lâm bạ; Biên bản giao nhận đất xây dựng vườn rừng và lời khai của Võ P, Ngô G, Võ Minh Q, Nguyễn Ngọc V, Võ Văn B, Nguyễn P, Nguyễn Hồng T, Phan Hoài L, Trần Ngọc M thì ông Q chỉ được giao khu đất thứ nhất như đã nêu ở Mục [1.2] nêu trên và ông Q cũng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh hộ gia đình ông được giao đất tại khu vực thứ hai này.
[1.4]. Ông Q cho rằng quá trình sử dụng khu đất thứ hai này; vào năm 1993 UBND huyện T, UBND xã HP và đơn vị thi công đã lấy đất của ông tại vị trí hiện nay đang tranh chấp để sửa chữa phục hồi, kênh mương thủy lợi do lũ lụt làm hư hỏng và có bồi thường cho hộ ông thiệt hại về cây trồng; tuy nhiên ông không cung cấp được chứng cứ tài liệu chứng minh.
Ngoài ra ông Q còn cho rằng Quyết định số 17/QĐ-UB ngày 17/4/2003 của UBND xã H là chứng cứ công nhận quyền sử dụng đất của ông đối với đất tranh chấp; xét thấy: Quyết định số 17/QĐ-UB ngày 17/4/2003 của UBND xã H là Quyết định giải quyết khiếu nại của ông Q, chứ không phải là quyết định giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Q, nên cũng chỉ được xem là một chứng cứ để xem xét, đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án này; tuy nhiên qua xem xét toàn diện thì Quyết định số 17/QĐ-UB ngày 17/4/2003 của UBND xã H không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên không có cơ sở cho rằng diện tích đất thuộc khu thứ hai có diện tích 6.181,5m2 ; trong đó có 447,4m2 đất tranh chấp đã được giao cho hộ gia đình ông Q theo Quyết định số 79/QĐ-UB ngày 18/11/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Khánh và Sổ Lâm bạ năm 1989, mà là đất đồi núi do UBND xã H quản lý thuộc thửa 55, tờ bản đồ 9-C, bản đồ địa chính năm 1996 diện tích 14.992m2 (trong đó có 447,4m2 đất tranh chấp) và đất do UBND xã HP quản lý thuộc thửa 507, tờ bản đồ 9C năm 1996, diện tích 19.003m2.
[1.5]. Đối với diện tích đất tranh chấp 447,4m2; xét thấy: Vào năm 2002 UBND xã H giao đất có thu tiền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C là không đúng thẩm quyền, tuy nhiên diện tích đất này không chồng lấn với diện tích đất hộ ông Võ Minh Q được giao đất theo Sổ Lâm bạ và là đất do Nhà nước quản lý không thuộc quyền quản lý sử dụng của nguyên đơn ông Q. Ngày 07/02/2017 vợ chồng ông H, bà C đã được UBND huyện T cấp hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 369372, CA 369323 tại thửa 392, 393 tờ bản đồ 9 - C loại đất ở nông thôn là đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định.
Từ những nhận định đã nêu trên xét thấy việc nguyên đơn ông Võ Minh Q yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị P C chấm dứt hành vi chiếm đất, tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, trả lại diện tích đất 400m2 là không có căn cứ nên án sơ thẩm đã tuyên xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Ông Võ Minh Q kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên không có căn cứ để chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[1.6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[1.7] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Võ Minh Q phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Minh Q; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
2. Về án phí phúc thẩm: Ông Võ Minh Q phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm; đã nộp đủ tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000100 ngày 09/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 116/2023/DS-PT về tranh chấp QSDĐ; yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, tháo dỡ công trình xây dựng trên đất và yêu cầu huỷ GCNQSDĐ
Số hiệu: | 116/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về