Bản án 113/2021/DS-PT về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 113/2021/DS-PT NGÀY 22/03/2021 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, CÔNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2020/TLPT- DS ngày 05 tháng 3 năm 2020 về việc “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất; công nhận quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2019/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2392/2020/QĐ - PT ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N Địa chỉ trụ sở: Quốc lộ X1, Phường X2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

1. Ông Lê Bá T; sinh năm: 1989 (có mặt) Địa chỉ cư trú: đường P, Phường x2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng

2. Ông Trần Chí N1; Sinh năm: 1994 (có mặt) Địa chỉ cư trú: đường T, phường T, Quận X1, Thành phố Hồ Chí Minh

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hải V – Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt)

- Bị đơn:

1. Ông Đỗ Ngọc T3; Sinh năm: 1973 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: đường N, Phường X1, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bà Lâm Phạm Tú T4; Sinh năm: 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: đường N, Phường X1, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4:

Ông Dương Việt T5; Sinh năm: 1954 (có mặt) Địa chỉ: đường L, Phường x3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn U- Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện T7, tỉnh Sóc Trăng Địa chỉ trụ sở: Ấp Đầu Giồng, thị trấn Trần Đề, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T7: Ông Trần Văn D; Chức vụ: Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T7, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Ủy ban nhân dân huyện L4, tỉnh Sóc Trăng Địa chỉ trụ sở: Ấp 4, thị trấn Long Phú, huyện L4, tỉnh Sóc Trăng.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện L4: Ông Huỳnh Tấn T9; Chức vụ: Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L4 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ nơi làm việc: Ấp 4, thị trấn L huyện L4, tỉnh Sóc Trăng 3. Công ty trách nhiệm hữu hạn K Địa chỉ trụ sở: S Quốc lộ X1, Phường X2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn K: Ông Lê Bá T; Sinh năm: 1989 (có mặt) Địa chỉ cư trú: đường P, Phường X2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nội dung đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ ánvà tại phiên tòa, phía nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N (sau đây gọi tắt là Công ty N)trình bày như sau:

Nguyên toàn bộ diện tích đất 40.000m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của ông Lương Văn H8 (đã được Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V600040 diện tích 20.000m2) và của ông Hứa Văn C2 (đã được Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V191868 diện tích 20.000m2).

Vào năm 2006, do thường xuyên mua thức ăn thủy sản tại Công ty N nên ông Lương Văn H8 và ông Hứa Văn C2 biết Công ty N có nhu cầu mua đất để nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, ông H8 và ông C2 đã đề nghị Công ty N mua lại đất của mình với tổng diện tích là 05ha, trong đó có 01ha rừng phòng hộ. Sau khi cho người xuống xem xét hiện trạng, giấy tờ, thỏa thuận giá cả, hai bên quyết định giá bán đất là 480.000.000 đồng. Do ông C2 bận công việc nên đã giao cho ông H8 thực hiện toàn bộ việc thương lượng, thỏa thuận, ký kết hợp đồng, nhận tiền. Vào ngày 19-01- 2006, ông H8 và đại diện theo pháp luật của Công ty N là ông Đỗ Ngọc T3 đã ký hợp đồng mua bán đất đối với diện tích đất nêu trên theo mức giá do hai bên đã thỏa thuận. Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty N đã thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng cho ông H8, ông C2.Công ty N xác định số tiền chuyển nhượng đất của ông H8 và ông C2 do ông H8 nhận từ ông T3 là nguồn tiền của Công ty trách nhiệm hữu hạn K (sau đây gọi tắt là Công ty K). Bởi vì, ông T3 và bà Trần Mỹ L5 là kế toán Công ty K vào năm 2008 có đề nghị ông Đỗ Ngọc Q là Tổng giám đốc Công ty K duyệt chi số tiền mua thửa đất nêu trên vào ngày 05-02-2008. Tại phiên tòa, đại diện Công ty N xác định không cung cấp được báo cáo tài chính của Công ty K và Công ty N từ năm 2006 đến năm 2008.

Về phía Công ty N, sau khi nhận bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ pháp lý liên quan đến thửa đất nêu trên, Công ty N đã giao nhân viên liên hệ, tiến hành hoàn tất các thủ tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, để Công ty N đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 40.000m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, Công ty N cũng cho nhân viên xuống triển khai việc quản lý, sử dụng diện tích đất nhận chuyển nhượng nêu trên để thực hiện việc nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, Công ty N vẫn đang quản lý, sử dụng diện tích đất này.

Trong quá trình cho một số nhân viên nghỉ việc, bàn giao giấy tờ, Công ty N phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên không do Công ty N đứng tên mà là do ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 đứng tên. Nay Công ty N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 giao lại quyền sử dụng đất diện tích 40.000 m2thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng; công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số AK 909791 do Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp ngày 03-01-2008 đối với thửa đất số 118 nêu trên (cấp cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4).

Công ty N không đồng ý đối với yêu cầu phản tố của ông T3 và bà T4 về việc yêu cầu Công ty N giao trả phần đất có diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

* Theo nội dung đơn phản tố, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, phía bị đơn Đỗ Ngọc T3 và Lâm Phạm Tú T4trình bày như sau:

Nguồn gốc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của ông Lương Văn H8 và ông Hứa Văn C2. Căn cứ vào hợp đồng mua bán ngày 19-01-2006 thì ông H8 có bán cho ông T3 diện tích đất 05ha, trong đó 02 ha là đất của ông H8, 02 ha là đất của ông C2 và 01ha còn lại là đất rừng phòng hộ với giá bán là 480.000.000 đồng với các đợt thanh toán như sau: Ngày 19-01-2006, giao 100.000.000 đồng; ngày 20-02-2006 giao 380.000.000 đồng còn lại. Sau khi giao đủ số tiền trên thì ngày giao đất cho ông T3 canh tác là ngày 22-01-2006. Đến ngày 22-9-2007, ông H8 cùng vợ là bà Phan Thị Hồng D4 đến Ủy ban nhân dân xã Liêu Tú lập hợp đồng theo mẫu và chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất 40.000m2 sang cho ông T3 và bà T4. Đến ngày 03-01-2008, ông T3 và bà T4 được Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa, ông Dương Việt T5 là người đại diện theo ủy quyền của ông T3 và bà T4 xác định, sau khi nhận đất từ ông H8 và ông C2 vào năm 2006, ông T3 và Thanh đã thống nhất giao phần đất này cho Công ty N quản lý, sử dụng để nuôi trồng thủy sản đến nay, nhằm thu lợi nhuận cho cả Công ty trong đó ông T3 cũng là thành viên, việc thỏa thuận này không được lập thành văn bản. Đồng thời, ông T5 cũng xác định giữa ông H8, ông C2 với ông T3 chỉ thực hiện 01 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất duy nhất vào năm 2006 đối với thửa đất số 118 (khi đã nhập thửa) và vị trí thửa đất này nằm ở Khu C theo quy ước của Công ty N; trong giai đoạn 2006- 2008, ông T3 và bà T4 không có kinh doanh riêng, chỉ làm việc tại Công ty N. ông T5 xác định việc ông H8, ông C2 xác nhận chuyển nhượng thửa đất số 118 cho Công ty K là hoàn toàn vô lý, bởi vì vợ chồng ông H8 và ông C2 đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp với vợ chồng ông T3, bà T4 và ông H8 là người nhận tiền chuyển nhượng từ ông T3. Đồng thời, Công ty N cũng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn tiền mà ông T3 dùng chuyển nhượng thửa đất số 118 là của Công ty K. Đối với Phiếu ghi mẫu do Công ty K phát hành có ghi nội dung chi ngày 05-02-2008 có chữ viết của ông T3 và chữ ký của ông Q chỉ là giấy nháp của ông T3, không biết sao lại có chữ ký của ông Q nên không đủ cơ sở xác định là chứng từ tài chính. Do đó, đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện Công ty N và yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty N giao trả cho ông T3 và bà T4 quyền sử dụng đất diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

* Tại Công văn số 672/UBND-VP ngày 12-11-2018, Ủy ban nhân dân huyện L4 có ý kiến như sau: Thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng được Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 909791 ngày 03-01-2008 cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4. Thừa đất nêu trên thuộc huyện T7, hiện nay hồ sơ địa chính các xã, thị trấn thuộc huyện T7 là do Ủy ban nhân dân huyện T7 quản lý. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng liên hệ Ủy ban nhân dân huyện T7 để được cung cấp thông tin.

* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T7 trình bày như sau: Ủy ban nhân dân huyện T7 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 909791 ngày 03-01-2008 do Ủy ban nhân dân huyện L4 cấp cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4. Bởi vì, về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận đúng theo khoản 3 chương 2 và khoản 4 chương 3 của Thông tư số 1990 ngày 30-11-2001, còn về điều kiện cấp giấy thì có hợp đồng chuyển nhượng số 870 và 871 ngày 22-9-2007 giữa hộ Hứa Văn C2 và Lương Văn H8 với ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4 được Ủy ban nhân dân xã Liêu Tú chứng nhận, mẫu hồ sơ chuyển nhượng đúng theo Thông tư số 1883 ngày 12-11-2001 quy định và đất không có tranh chấp cũng như bên chuyển nhượng đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

* Tại Văn bản giải trình ngày 16-9-2019 của Công ty K và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Công ty K trình bày như sau: Công ty N là công ty con của Công ty K, chuyên nuôi trồng và chế biến thức ăn thủy sản. Vào năm 2006, Công ty K đã chi tiền để Công ty N nhận chuyển nhượng đất của ông Lương Văn H8 và ông Hứa Văn C2 với tổng diện tích đất là 40.000m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng. Giá chuyển nhượng là 480.000.000 đồng. Do ông C2 bận công việc nên đã giao cho ông H8 thực hiện toàn bộ việc thương lượng, thỏa thuận, ký kết hợp đồng, nhận tiền. Ngày 19-01-2006, ông H8 và đại diện theo pháp luật của Công ty N là ông Đỗ Ngọc T3 ký hợp đồng mua bán đất đối với diện tích đất nêu trên theo mức giá do hai bên đã thỏa thuận. Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty K đã thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng cho ông H8, ông C2 (thể hiện qua các biên nhận tiền, bảng đề nghị thanh toán). Sau khi thanh toán đầy đủ tiền, mọi thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất nêu trên đều do Công ty N giao cho nhân viên thực hiện. Đồng thời, Công ty N cũng cho nhân viên xuống triển khai việc quản lý, sử dụng phần đất này để thực hiện việc nuôi trồng thủy sản cho đến nay. Nhận thấy, việc chi tiền có giấy biên nhận của đại diện chủ đất, xác nhận của chủ đất về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Công ty. Từ thời điểm nhận chuyển nhượng phần đất trên cho đến nay, Công ty N là người trực tiếp quản lý, sử dụng để đào ao, nuôi trồng thủy sản. Do đó, việc ông T3, bà T4 lợi dụng sự sơ hở của Công ty N để đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là trái luật. Nay Công ty K thống nhất với yêu cầu khởi kiện của Công ty N.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Lương Văn H8 trình bày như sau: ông H8 không quen biết với ông Q, bà T4. Đối với ông T3 thì ông H8 có quen biết do từ khoảng thời gian năm 2005-2006 ông H8 có mua thức ăn và bán tôm thương phẩm cho Công ty K do ông T3 là người đại diện giao dịch. Vào năm 2002, ông H8 và ông Hứa Văn C2 hùn tiền mua ba thửa đất số 154, 118, 123 có tổng diện tích 40.000m2, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng (huyện L4 cũ) và nuôi tôm. Đến năm 2004, ông H8 và ông C2 thỏa thuận giao cho ông H8 sử dụng toàn bộ phần đất này và ông H8 có trách nhiệm thanh toán khoản nợ chung cho ngân hàng. Đến năm 2006, ông H8 chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên cho Công ty K với giá là 480.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng đất, phía Công ty K do ông T3 đại diện và ông H8 có ghi Hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006 với ông T3. Sau đó, phía Công ty K do ông T3 làm đại diện làm sẵn thủ tục chuyển nhượng đất và nhờ phía ông H8 cùng vợ là bà Phan Thị Hồng D4 ký chuyển nhượng đối với các thửa đất số 123, 118 (do ông H8 và bà Dung đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và ông Hứa Văn C2 ký chuyển nhượng đối với thửa đất 154 (do ông C2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Khi ký hợp đồng chuyển nhượng, ông H8 và bà Dung không chú ý bên nhận chuyển nhượng là ông T3 và bà T4. ông H8 xác định chuyển nhượng đất cho Công ty K và quá trình giao dịch thì ông H8 đại diện cho vợ chồng và bà Dung cũng thống nhất.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Phan Thị Hồng D4 trình bày như sau: Bà Dung chỉ ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng đất theo quy định của luật. Toàn bộ mọi giao dịch giữa ông H8, ông C2 thì bà Dung không rõ, bà Dung không có trực tiếp giao dịch và cũng không liên quan gì việc này. Việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng giữa ông H8 với Công ty K như thế nào thì căn cứ vào trình bày của ông H8.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Hứa Văn C2 trình bày: Trước năm 2006, ông C2 và ông H8 hùn nuôi tôm và có nợ tiền ngân hàng. ông C2 và ông H8 thỏa thuận là ông H8 sẽ chịu trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng, ngược lại ông C2 giao toàn bộ thửa đất số 154, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng cho ông H8 để trả nợ ngân hàng. Đến năm 2006, ông H8 chuyển nhượng thửa đất trên cho người khác nên nhờ ông C2 ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng khi ký ông C2 không có xem kỹ bên nhận chuyển nhượng đất là ai.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Lý Thị Bích L6 trình bày như sau: Bà Liên có ký vào hợp đồng chuyển nhượng đất đối với thửa đất số 154, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, mọi giao dịch thỏa thuận là do chồng bà Liên là ông C2 đứng ra đại diện.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Lưu Quốc P2 trình bày như sau: Ông Phong xác định vào năm 2007 ông Phong giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Liêu Tú. Vào ngày 22-9-2007, ông Phong có ký chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hứa Văn C2, bà Lý Thị Bích L6 với ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lương Văn H8, bà Phan Thị Hồng D4 với ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4. Việc chứng thực hợp đồng thực hiện đúng quy trình là các bên trong hợp đồng ký trước mặt cán bộ tiếp nhận hồ sơ sau đó trình đại diện Ủy ban nhân dân xã ký chứng thực.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Thạch Hồng N3 trình bày như sau: Ông Nhãn xác định vào năm 2007 ông Nhãn là cán bộ địa chính xã Liêu Tú. Ông Nhãn xác định trong quá trình công tác ông chịu trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi hồ sơ hợp lệ, đủ thủ tục thì đề nghị hai bên trong hợp đồng ký vào hợp đồng chuyển nhượng trước mặt ông Nhãn, sau đó ông Nhãn trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã ký chứng thực, rồi chuyển qua bộ phận văn thư đóng dấu, vào sổ lấy số.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng Trần Mỹ L5 trình bày như sau: Bà Trần Mỹ L5 xác định vào năm 2008 bà L5 là kế toán trưởng của Công ty K. bà L5 xác định Phiếu ghi mẫu do Công ty K phát hành có ghi nội dung chi ngày 05-02-2008 có chữ viết của ông T3 chỉ là giấy nháp của ông T3. Do có mối quan hệ gia đình, ông T3 là em chồng bà L5, nhờ bà L5 theo dõi dùm việc mua bán đất của ông T3, ghi dùm tên của người bán nên chữ viết (Lương Văn H8 + Hứa V Cường) trại tôm khu C, thu ứng 23.000.000 đ 439.000.000 đ, TC 462.000.000 đ là chữ viết của bà L5, thời điểm bà L5 ghi không có chữ ký của ông Q.

Tại bản án dân sự sơ thẩm 44/2019/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

* Căn cứ: khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 34, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số AK 909791 do Ủy ban nhân dân huyện L4, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03-01-2008 cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4.

Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 giao trả phần đất diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Đỗ Ngọc T3 và Lâm Phạm Tú T4, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N giao trả cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 phần đất có diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

2. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N. Hiện nay, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N đang quản lý, sử dụng thửa đất số 118. (Kèm theo bản án là Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T7, tỉnh Sóc Trăng lập ngày 31-5-2019) 3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 909791 do Ủy ban nhân dân huyện L4, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03-01-2008 cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 đối với thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7 (huyện L4 cũ), tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, - Ngày 28-11-2019 bị đơn ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

- Ngày 03-12-2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng có quyết định số 01/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đương sự. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Trong phần tranh luận:

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Thửa 118 có nguồn gốc của ông H8, ông C2. Do làm ăn thua lỗ nên ông H8, ông C2 lập hợp đồng mua bán ngày 19-01-2006 với ông T3, bà T4 với giá 480 triệu đồng. ông T3 đã thanh toán đủ tiền. Năm 2007 vợ chồng ông C2, vợ chồng ông H8 đến UBND huyện T7 làm hợp đồng chuyển nhượng. Sau đó ông T3, bà T4 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm đã lấy lời khai của cán bộ địa chính đã xác nhận có tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ mua bán giữa ông T3 bà T4 với vợ chồng ông H8, ông C2. Việc chuyển nhượng đúng quy định pháp luật. Hồ sơ vụ án có các phiếu chi, phiếu đề nghị thanh toán chỉ là bản nháp, không là phiếu chi theo mẫu quy định, công ty không xuất trình được phiếu chi đề nghị chi lệnh chi để chứng minh có việc chi tiền. Công ty không cung cấp được báo cáo tài chính chứng minh có việc chi tiền mua đất. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc nguyên đơn giao trả lại toàn bộ đất tranh chấp.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Phiếu chi 05-02-2008 có chữ ký ông T3, bà L5, ông Q. Trong các phiếu đề nghị duyệt chi thì người khảo sát phải có đề xuất giám đốc duyệt thì kế toán mới được chi. Các bảng đề nghị của người bán đất là ông H8 nêu là đề nghị Công ty K trả tiền cho ông chứ không phải ông T3. Quy trình chuyển nhượng xuất phát từ nhu cầu công ty ông T3 là người đi khảo sát mua đất. ông T3 không giải thích được vì sao sử dụng mẫu của công ty mà cho rằng là giấy nháp là không hợp lệ. bà L5 kế toán trưởng chỉ cho rằng mẫu không đúng Bộ Tài chính nhưng không phủ nhận chữ ký trong văn bản. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án, hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006 thể hiện bên bán ông H8, bên mua ông T3. Trong tất cả các biên nhận đều thể hiện cá nhân ông T3. Nguyên đơn cho rằng nguồn tiền mua đất của Công ty N nhưng biên bản xác minh bà L5 kế toán trưởng công ty cho rằng phiếu chi không đúng mẫu, không được hạch toán tài chính nên tiền mua đất của cá nhân ông T3. Hợp đồng năm 2007 có xác nhận UBND thể hiện bên mua chỉ là ông T3, bà T4. ông T3 bà T4 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định pháp luật. Trong sổ sách kế toán tài chính công ty không thể hiện có khoản chi mua đất. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở, yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ. Biên bản xác nhận 28-9-2016 theo ông H8 là do nhân viên công ty đánh máy nhờ ông ký tên nên không có giá trị. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Đơn kháng cáo của bị đơn, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N (Công ty N) khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4 giao lại quyền sử dụng đất diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118 tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện L4 đã cấp đối với thửa đất trên cho ông T3, bà T4; công nhận quyền sử dụng đối với phần đất trên cho Công ty N.

Bị đơn ông Đỗ Tú Tài, bà Lâm Phạm Tú T4 cho rằng đã nhận chuyển nhượng hợp pháp quyền sử dụng đất trên từ ông Lương Văn H8, ông Hứa Văn C2 nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, bị đơn có yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn phải giao trả phần đất trên cho bị đơn.

[3] Xét kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng:

[3.1] Nguồn gốc phần đất có diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118 tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của vợ chồng ông Lương Văn H8, bà Phan Thị Hồng D4 và vợ chồng ông Hứa Văn C2, bà Lý Thị Bích L6.

Nguyên đơn Công ty N cho rằng ông H8 (đồng thời đại diện cho ông C2) đã chuyển nhượng phần đất trên cho công ty theo hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006. Bị đơn ông T3, bà T4 cho rằng ông T3 ký kết hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006 là với tư cách cá nhân, không phải là người đại diện cho Công ty N.

[3.2] Xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ:

- Hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006 thể hiện: Bên bán Lương Văn H8, bên mua Đỗ Ngọc T3; Nơi giao kết hợp đồng tại Văn phòng Công ty N.

- Bản xác nhận ngày 28-9-2016 của ông Hứa Văn C2 có nội dung: “Tôi đã bán toàn bộ 2hecta đất cho công ty TNHH MTV N vào năm 2006”; bản xác nhận ngày 28-9-2016 của ông Lương Văn H8: “Tôi đã bán toàn bộ diện tích 5 hecta đất cho công ty TNHH MTV N vào năm 2006”.

- Tại biên bản xác minh ngày 19-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng với ông Lương Văn H8, ông H8 đã trình bày: “Bản xác nhận ngày 28-9- 2016 là do nhân viên công ty TNHH MTV N đánh máy sẵn nhờ tôi ký tên. Khi ký tên tôi có xem nội dung và có xác nhận ghi là “năm 2006 tôi có bán cho Công ty K diện tích đất trên” … Về quá trình sử dụng và chuyển nhượng phần đất trên: …Đến năm 2006, tôi chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên cho Công ty K với giá 480.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng công ty TNHH Kim Anh do ông T3 đại diện và tôi có ghi Hợp đồng mua bán đất ngày 19-01-2006”.

- Các giấy đề nghị, biên nhận tiền có nội dung như sau:

+ Các biên nhận tiền ngày 19-01-2006, 23-01-2006 có nội dung: “có nhận tiền của anh Đỗ Ngọc T3”, “có tạm ứng của ông Đỗ Ngọc T3” nhưng các biên nhận này chỉ thể hiện sự xác nhận của ông H8 về việc có giao nhận tiền.

+ Giấy đề nghị chi tiền mua đất ngày 17-4-2006 (BL 429), ông H8 nêu: “Đề nghị được tạm ứng 10.000.000đ (Mười triệu đồng) trong số tiền mua bán đất với Đỗ Ngọc T3 …Mong được công ty chấp nhận”.

+ Phiếu chi ngày 05-02-2008 (BL 422): “Chi 512.475.000đ mua đất nuôi tôm (khu c) 40.000m x 12.811,đ 8 m2”, ông T3 thừa nhận chữ ký, chữ viết trong phiếu chi trên là của ông T3 (BL 336 -338). Bà Trần Mỹ L5 - Kế toán trưởng Công ty K thừa nhận chữ ký duyệt thanh toán phía dưới là chữ ký của ông Q – Tổng giám đốc Công ty K, phần chữ viết (Lương Văn H8 + Hứa V Cường) trại tôm khu C, thu ứng 23.000.000 đ 439.000.000 đ, TC 462.000.000 đ là chữ viết của bà L5 (BL 404 – 405).

+ Bảng đề nghị ngày 21-3-2006 (BL 428) của ông H8: “Kính đề nghị Ban lãnh đạo công ty Kim Thu xin được tạm ứng số tiền mua bán đất 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu) để tôi chi trả: - Ngân hàng đầu tư và phát triển 200.000.000đ (Hai trăm triệu); - Sử dụng nuôi tôm 50.000.000đ. Tôi cam kết trong 2 tháng sẽ giải quyết dứt nợ ngân hàng và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công ty làm thủ tục mua bán theo quy định”.

Căn cứ vào nội dung xác nhận của người chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các tài liệu chứng cứ trên, thì có cơ sở xác định phần đất 40.000m2 ông H8 chuyển nhượng cho Công ty N, mà ông T3 là người đại diện giao dịch chứ không phải là cá nhân ông T3.

ông T3 và bà L5 cho rằng các phiếu ghi mẫu của Công ty K chỉ là giấy nháp là không có cơ sở chấp nhận. Vì trong phiếu có chữ ký duyệt thanh toán của ông Q là Tổng giám đốc Công ty K. Việc thu chi trong công ty phải được sự duyệt chi của người có thẩm quyền và người ký duyệt phải chịu trách nhiệm về chữ ký, nên lời trình bày của phía bị đơn cho rằng phiếu ghi (đã có sẵn chữ ký duyệt chi của Tổng giám đốc công ty) chỉ là bản nháp là không hợp lý.

Ngoài ra, theo trình bày của đương sự thì nguyên đơn đang là quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp. Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28-3-2019 của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện trên phần đất tranh chấp hiện đang có tài sản của Công ty N. Bị đơn ông T3, bà T4 trình bày sau khi nhận chuyển nhượng đã tự nguyện giao đất cho Công ty N quản lý, sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, bị đơn không có chứng cứ chứng minh được có việc tự nguyện giao đất cho công ty, cũng như không nêu cụ thể việc giao đất (nếu có) cho công ty là theo hình thức nào là góp vốn, hay cho thuê mượn quyền sử dụng đất. Do đó, nội dung kháng cáo của bị đơn không có cơ sở chấp nhận.

[3.5] Đối với Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng:

- Về việc xem xét các giấy đề nghị, biên nhận tiền không có nội dung thể hiện ông H8 đã nhận tiền của Công ty N: Như đã nhận định ở mục [3.2], ông T3 là người đại diện công ty thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên ông T3 là người trực tiếp giao nhận tiền với ông H8. Mặc dù trong các biên nhận không có nội dung là nhận tiền từ Công ty N, nhưng qua các giấy đề nghị và xác nhận của người chuyển nhượng đất thì đủ cơ sở xác định số tiền chi trả cho ông H8 không phải là của cá nhân ông T3, bà T4.

- Về xem xét giá trị của các bản xác nhận ngày 28-9-2016: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Hứa Văn C2 đều xác định đã ủy quyền cho ông H8 thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại biên bản xác minh ngày 03-12-2018 (BL 302 – 303) ông C2 trình bày: “Việc giao đất nhận tiền chuyển nhượng do ông H8 trực tiếp thực hiện với bên nhận chuyển nhượng như thế nào tôi không rõ”. Các đương sự trình bày thống nhất bên bán trong giao dịch là ông Lương Văn H8. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xác minh làm rõ việc ông H8 ký giấy xác nhận ngày 28-9-2016, nội dung là do nhân viên Công ty N đánh máy, nhưng khi ký ông H8 đã xem qua và xác nhận chính xác nội dung văn bản. Do đó, nội dung các bản xác nhận ngày 28/9/2016 là có giá trị chứng minh.

- Về nhận định cho rằng theo trình bày của bà L5 thì phiếu ghi không đúng mẫu Phiếu chi của Bộ Tài chính, và Công ty N không cung cấp được tài liệu chứng minh quyền sử dụng đất trên là tài sản cố định của công ty. Xét thấy, bản chất vụ án là tranh chấp quyền sử dụng đất, làm rõ bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang tranh chấp là Công ty N hay cá nhân ông T3, bà T4. Vấn đề liên quan đến tài chính, kế toán của Công ty N không nằm trong phạm vi giải quyết của vụ án này. Hơn nữa, quyền sử dụng đất đối với phần đất đang tranh chấp đang được cấp giấy chứng nhận cho cá nhân ông T3, bà T4, trong khi ông T3 không chứng minh được có việc đưa quyền sử dụng đất trên vào tài sản của công ty nên chưa đủ điều kiện để ghi nhận đây là tài sản cố định của công ty.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,

I. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4; Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 01/QĐKNPT- VKS-DS ngày 03-12-2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng; Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 44/2019/DS-ST ngày 19-11-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 34, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số AK 909791 do Ủy ban nhân dân huyện L4, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03-01-2008 cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4.

Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 giao trả phần đất diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Đỗ Ngọc T3 và Lâm Phạm Tú T4, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N giao trả cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 phần đất có diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng.

2. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 40.000 m2 thuộc thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N. Hiện nay, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N đang quản lý, sử dụng thửa đất số 118. (Kèm theo bản án là Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T7, tỉnh Sóc Trăng lập ngày 31-5-2019) 3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 909791 do Ủy ban nhân dân huyện L4, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03-01-2008 cho ông Đỗ Ngọc T3 và bà Lâm Phạm Tú T4 đối với thửa đất số 118, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp G, xã L, huyện T7 (huyện L4 cũ), tỉnh Sóc Trăng.

4. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đỗ Ngọc T3, bà Lâm Phạm Tú T4 mỗi đương sự phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002282, 0002283 cùng ngày 06-12-2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 113/2021/DS-PT về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:113/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;