TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 37/2017/DS-ST NGÀY 10/07/2017 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI
Ngày 10 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 89/2017/TLST-DS ngày 05 tháng 4 năm 2017 về việc "Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2017/QĐXX-ST ngày 2/6/2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Châu Thị K, sinh năm 1973. Trú tại: Phường M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn: Nguyễn Mỹ H, sinh năm 1972. Trú tại: phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
(Bà K có mặt, bà H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong quá trình tố tụng tại phiên toà: Nguyên đơn Châu Thị K trình bày: Vào năm 2016 bà K tham gia nhiều dây hụi của bà Nguyễn Mỹ H, địa chỉ tại phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre làm chủ cụ thể như sau:
Dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10/6/2016, hụi có 20 phần, bà K tham gia 01 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày 10 và ngày 25 hàng tháng, bà K đóng được 13 phần hụi sống, mỗi lần đóng là 1.234.000 đồng x 13 lần = 16.030.000 đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 15/7/2016, hụi có 25 phần, bà K tham gia 02 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày 15 và ngày 30 hàng tháng, bà K đóng được 12 phần hụi sống, mỗi lần đóng là 1.226.000 đồng x 12 lần x 2 phần = 29.420.000 đồng.
Tổng cộng bà H còn nợ bà K tiền hụi là 16.030.000 đồng + 29.420.000 đồng = 45.450.000 đồng.
Nay bà K yêu cầu bà H phải trả cho bà K số tiền hụi là 45.450.000 đồng không yêu cầu tính lãi. Bà K chỉ kiện một mình bà H không khởi kiện chồng của bà H là ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ.
Bị đơn Nguyễn Mỹ H trình bày: Bà H vắng mặt không tham gia tố tụng nhưng có lời trình bày tại biên bản làm việc ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố BT. Bà H thừa nhận còn nợ bà K số tiền hụi là 45.450.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Hội đồng xét xử tại phiên tòa và việc chấp hành đúng pháp luật của người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Về nội dung: Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp nợ hụi” là có cơ sở. Bà H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, căn cứ vào biên nhận nợ hụi ngày 25/12/2016 và biên bản làm việc ngày 08/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre thì bà H thừa nhận còn nợ bà K số tiền hụi là 45.456.000 đồng. Căn cứ Điều 471 Bộ luật dân sự 2015 đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn K.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ kiện tranh chấp nợ hụi theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre.
[2] Về tố tụng: Bà Nguyễn Mỹ H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không tham gia tố tụng. Do đó, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Nguyễn Mỹ H
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Châu Thị K: Tại phiên tòa bà K vẫn giữ quan điểm khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Mỹ H phải trả cho bà K số tiền hụi mà bà K đã đóng hụi là 45.450.000 đồng, không yêu cầu tính lãi và bà K chỉ kiện một mình bà H không khởi kiện chồng của bà H là ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ. Bà K cho rằng vào năm 2016 bà có tham gia chơi hụi do bà Nguyễn Mỹ H làm chủ hụi các dây hụi sau: Dây hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 10/6/2016, có 20 phần, bà K tham gia một phần, tính đến ngày vỡ hụi thì bà K đóng được 13 phần hụi sống với tổng số tiền là 16.030.000 đồng. Dây hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 15/7/2016, hụi 25 phần, bà K tham gia hai phần, tính đến ngày vỡ hụi thì bà K đóng được 12 phần hụi sống của dây hụi này, do bà K chơi 2 phần nên bà K đã đóng hụi sống được 24 phần trong dây hụi này, thành tiền là 29.420.000 đồng. Tổng cộng bà H còn nợ bà K tiền hụi sống là 45.450.000 đồng.
Bà Nguyễn Mỹ H vắng mặt phiên tòa không có lý do chính đáng nhưng có lời trình bày tại biên bản xác minh, bà H thừa nhận còn nợ bà K số tiền hụi là 45.450.000 đồng. Bà K đã cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là giấy nhận nợ hụi ngày 25/12/2016, có chữ ký của bà H, nội dung biên nhận nợ đã thể hiện bà H thừa nhận còn nợ bà K số tiền hụi sống mà bà K đã đóng là 45.450.000 đồng.
Tại biên bản làm việc ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre thì bà H cũng thừa nhận còn nợ bà K số tiền hụi là 45.450.000 đồng. Lời trình bày của bà H trong biên bản xác minh cũng phù hợp với biên nhận nợ của bà K cung cấp cho Tòa án. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà K là có căn cứ chấp nhận cũng phù hợp với lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.
[4] Ghi nhận việc bà K không yêu cầu tính lãi số tiền trên và không khởi kiện chồng của bà H là ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của bà Châu Thị K được chấp nhận nên bà Nguyễn Mỹ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 45.450.000 đồng x 5% = 2.272.500 đồng. Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 471, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26, 35, 147, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi tiền hụi của nguyên đơn bà Châu Thị K đối với bị đơn bà Nguyễn Mỹ H. Buộc bà Nguyễn Mỹ H phải trả cho bà Châu Thị K số tiền 45.450.000 (bốn mươi lăm triệu, bốn trăm năm chục ngàn) đồng. Ghi nhận bà Châu Thị K không yêu cầu tính lãi số tiền nêu trên. Ghi nhận bà Châu Thị K không khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cùng bà Nguyễn Mỹ H.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, đồng thời có đơn yêu cầu thi hành án của bà Châu Thị K nếu bà Nguyễn Mỹ H chưa trả số tiền nêu trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất chậm thanh toán theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi trả xong nợ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Nguyễn Mỹ H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 2.272.500 (hai triệu, hai trăm bảy mươi hai ngàn, năm trăm) đồng. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BT hoàn trả 1.136.000 (một triệu, một trăm ba mươi sáu ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm cho bà Châu Thị K theo biên lai thu số 0010399 ngày 03/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BT. Bà Châu Thị K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Mỹ H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp nợ hụi số 37/2017/DS-ST
Số hiệu: | 37/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về