TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 11/2018/HSST NGÀY 03/05/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2018/HSST ngày 16/3/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2018, đối với bị cáo:
Họ và tên: Đào Thanh S (Tên gọi khác: Không;) Giới tính: Nam; Sinh ngày: 06 tháng 9 năm 1990 tại huyện B, tỉnh Lao Cai; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Không; Văn hoá:11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đào Anh Đ (đã chết); Con bà Tô Thị Hồng V (Tô Thị V) sinh năm 1954; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “ Cướp tài sản”; (đều đã được xóa án tích); Ngày 26/2/2018 bị Công an huyện Yên Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt ngày 05/01/2018, hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Yên Bái, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Đặng Văn V, sinh ngày 17/3/2001 (Có mặt).
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Lê Thị H (là mẹ đẻ của cháu Vinh); đều trú tại thôn Ng, xã B, huyện Y, tỉnh Yên Bái (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Triệu Đức T Trú tại: Thôn Q, xã V, huyện Y, tỉnh Yên Bái (vắng mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Phạm Văn B
Trú tại: Khu 1, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái (vắng mặt).
2. Bà Hoàng Thị Thu H
Trú tại: Khu 1, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do quen biết từ trước, khoảng 07 giờ ngày 03/01/2018 Đào Thanh S gặp cháu Đặng Văn V sinh năm 2001, đang đi đến trường bằng xe mô tô nhãn hiệu ESPER0, BKS 21BA- 02853, Sơn xin cháu V đi nhờ xe, sau đó hỏi mượn chiếc xe trên đón bạn. Sau khi mượn xe S nảy sinh ý định mang chiếc xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, Sơn đã nhờ Triệu Đức T sinh năm 1989, trú tại thôn Q, xã V, huyện Y, tỉnh Yên Bái mang chiếc xe đi cầm cố, T đồng ý rồi cả hai mang chiếc xe mô tô S vừa mượn của cháu V đến hiệu cầm đồ của gia đình anh Phạm Văn B, ở khu 1, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái cầm cố được số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) sau đó S mua ma túy hết 500.000 đồng ( năm trăm nghìn đồng), cả hai cùng nhau sử dụng hết số ma túy, số tiền còn lại S chi tiêu cá nhân hết, không có khả năng trả chuộc lại tài sản trả cho cháu V.
Đến ngày 05/01/2018 Triệu Đức T biết được chiếc xe máy trên do S phạm tội mà có nên T đã đến hiệu cầm đồ chuộc lại chiếc xe và giao nộp cho cơ quan điều tra. Tại cơ quan điều tra công an huyện Y, Đào Thanh S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Ngoài ra S còn khai nhận vào chiều ngày 16/12/2017 S còn có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô BKS 17H2- 5268 nhãn hiệu wave do Trung Quốc sản xuất của gia đình anh Tô Văn Đ, sinh năm 1976, trú tại thôn Đ, xã V, huyện Y. Sau khi trộm cắp S mang bán cho anh Nguyễn Mạnh T, trú tại thôn Đ, xã V, huyện Y được 700.000 đồng (bẩy trăm nghìn đồng). Sau khi mua chiếc xe trên anh T đã tháo rời chiếc xe, tận dụng một số bộ phận để lắp ráp vào các xe máy khác, bộ phận động cơ và khung xe anh T đã bán sắt vụn, còn lại 02 chiếc bánh xe và chiếc BKS của xe, anh T đem giao nộp cho cơ quan điều tra. Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái ngày 09/01/2018 kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPER0, BKS: 21 BA-02853 có trị giá là 7.700.000 đồng (bẩy triệu bẩy trăm nghìn đồng), đã được cơ quan điều tra trao trả cho cháu Đặng Văn V. Đối với chiếc xe mô tô BKS 17H2- 5268, nhãn hiệu wave do Trung Quốc sản xuất, không đủ cơ sở để kết luận giá trị tài sản.
Cáo trạng số 10/CT- VKS ngày 15/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình truy tố Đào Thanh S về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Thanh S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Đào Thanh S từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Buộc bị cáo phải nộp án phí HSST theo qui định của pháp luật.
- Bị cáo khai báo thành khẩn và nhất trí với lời luận tội của kiểm sát viên không có ý kiến tranh luận gì, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.ơ
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Bình và viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình, đã thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc thu thập các tài liệu, chứng cứ trong vụ án đã đầy đủ đảm bảo khách quan, hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Đào Thanh S khai nhận: Sáng ngày 03/01/2018 tại khu 1, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái, Đào Thanh S đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPER0, BKS 21 BA- 02853 có trị giá là 7.700.000 đồng (bẩy triệu bẩy trăm nghìn đồng) của cháu Đặng Văn V mang đi cầm cố lấy số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai các nhân chứng, phù hợp với kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận Đào Thanh S đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm b khoản 1 Điều 175 BLHS.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[3] Đào Thanh S là người có nhân thân xấu: Năm 2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “ Cướp tài sản”; (đều đã được xóa án tích). Ngày 26/2/2018 bị Công an huyện Yên Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ trộm cắp tài sản”. Đây thể hiện ý thức coi thường pháp luật, do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa Đào Thanh S khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản gì, là đối tượng nghiện ma túy do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô BKS 17H2- 5268, nhãn hiệu wave do Trung Quốc sản xuất của gia đình anh Tô Văn Đ, do không thu hồi được tài sản nên hội đồng định giá không đủ cơ sở để kết luận giá trị tài sản, mặt khác người bị hại không yêu cầu S phải bồi thường thiệt hại, đồng thời có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với Đào Thanh S, do đó cơ quan điều tra công an huyện Yên Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Sơn về hành vi này.
Đối với Triệu Đức T là người đưa S đi cầm cố chiếc xe mô tô ESPER0, BKS: 21 BA- 02853 và anh Nguyễn Mạnh T là người mua chiếc xe mô tô BKS 17H2- 5268, do T, T không biết đó là tài sản bất hợp pháp nên không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu Đào Thanh S bồi thường thiệt hại, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo qui định của pháp luật
[7] Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đào Thanh S phạm tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Thanh S 01 năm 06 tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 05/01/2018.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH qui định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Đào Thanh S phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 BLTTHS: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 11/2018/HSST ngày 03/05/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 11/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/05/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về