Bản án 111/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Định Quán, Tòa án nhân dân huyện Định Quán xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần M H (tên gọi khác H1), sinh năm 1981 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 7, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Q1 - sinh năm 1952, con bà Nguyễn Thị Phương – sinh năm 1954; Vợ: không có; Chung sống như vợ chồng với bà Phan Thị T – sinh năm 1981 (không đăng ký kết hôn); Chung sống như vợ chồng với bà Nguyễn Thị V – sinh năm 1984 (không đăng ký kết hôn), có 02 con: Trần Trà M1 – sinh năm 2002, Trần Thế V1 - sinh năm 2004; Chung sống như vợ chồng với bà Võ Thanh T – sinh năm 1972 (không đăng ký kết hôn).

Tiền án: Ngày 12/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/9/2017.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 44 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Hủy hoại tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 03/9/2007, chấp hành xong án phí tháng 06/2005. Về phần bồi thường người được thi hành án không yêu cầu bồi thường đến nay đã hết thời hiệu thi hành án nên bị cáo H đương nhiên được miễn thi hành án. Năm 2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/7/2012, về phần biện pháp tư pháp đã chấp hành xong án phí tháng 01 năm 2013 và phần bồi thường tháng 6 năm 2012.

Bị tạm giam từ ngày 24/7/2019 (Có mặt).

Bị hại: Ông Lê V K, sinh năm 1981

Địa chỉ: ấp 7, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1986.

Đa chỉ: ấp 7, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 24/7/2019, sau khi đã nhậu xong, Trần M H cùng với anh P và một số người bạn của anh P đi đến quán của bà Nguyễn Thị Q (tên thường gọi là bé Hai) tại ấp 7, xã T để chơi “bida”. Trong lúc chơi “bida”, H nói bà Q bán cho H 04 chai nước trà thảo mộc “Dr Thanh” ướp lạnh nhưng bà Q chỉ mang ra cho H 01 chai; do vậy, giữa H và bà Q đã cự cãi nhau. Trong lúc cãi nhau, H dùng tay tát vào mặt của bà Q; bà Q dùng cây cơ bi da đánh vào người H nhưng sau đó cả 2 được những người khách trong quán can ngăn. Lúc này, H tiếp tục chửi và nói bà Q đến 20 giờ phải xin lỗi H, nếu không thì H sẽ mua xăng đốt nhà của bà Q. Sau đó, H đi về nhà ngủ. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, H ngủ dậy và nhớ lại việc mâu thuẫn với bà Q nên H lấy 01 can nhựa màu trắng (loại 10 lít) rồi điều khiển xe mô tô đi đến tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị B – sinh năm 1967 ở ấp 7, xã T mua 100.000 đồng xăng đổ vào can nhựa. Sau đó, H đi về nhà, cất xe mô tô và cầm can xăng đi bộ đến quán bà Q. Lúc này, bà Q và những người khách đang ở ngoài khu vực quán, H mang can xăng đi vào phòng khách trong nhà của bà Q thì ông Lê V K (là chồng của bà Q) cầm cây cơ dùng để chơi bi da đuổi theo đánh vào lưng H nhằm cản H lại. Bị đánh nhưng H tiếp tục mở nắp can nhựa và đổ xăng từ khu vực phòng khách kéo dài về phía nhà bếp. Ông Kvẫn đuổi theo nên H nói “Mày mà nhào đến tao bật quẹt tao đốt” nhưng ông Kvẫn tiếp tục đuổi theo để ngăn H. Lúc này, H lấy trong túi quần 01 bật lửa màu vàng và bật lửa châm xuống nền nhà đốt nên lửa cháy bùng lên trúng vào người ông Kvà người H. Bị bỏng nên ông Kchạy ra trước quán, còn H chạy xuống bếp. Sau đó, ông Kđược người dân đưa đi cấp cứu; còn H đi đến Công an xã T đầu thú.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Định Quán, Trần M H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Hậu quả:

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0659/TgT/2019 ngày 29/7/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận ông Lê V K bị thương tích như sau:

- Bỏng độ II tay phải, chân hai bên tổng diện tích 18%. Tỷ lệ 11%. 11%.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là - Kết luận khác: Bỏng do nhiệt.

Ngày 04/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Định Quán ban hành Quyết định Trưng cầu giám định số 1152/CSĐT, về việc trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai giám định di chứng do bỏng gây ra của ông Lê V K.

Ngày 09/09/2019, Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai ra Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0819/TgT/2019 kết luận: hiện tại vết bỏng đã liền sẹo và không ảnh hưởng tới chức năng nên tỷ lệ tổn thương cơ thể của bệnh nhân Lê V K, sinh năm 1981 là không thay đổi so với bản kết luận số 0659/TgT/2019 ngày 29/7/2019.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 11%.

Vt chứng vụ án:

- 01 can nhựa màu trắng, loại 10 lít (đã bị cháy một phần).

- 01 bật lửa màu vàng.

- 01 cây cơ bi da dài 68 cm (đã bị gãy).

Trách nhiệm dân sự:

Sau khi sự việc xảy ra, ông Lê V K đã kê khai tiền thuốc, tiền điều trị và tiền công lao động trong thời gian nằm viện và làm đơn yêu cầu Trần M H bồi thường số tiền là 25.854.170 đồng. Hiện bị cáo H chưa bồi thường.

Tại cáo trạng số 104/CT-VKSĐQ ngày 04 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố bị cáo Trần M H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tại Quyết định bổ sung cáo trạng số 163/QĐ-VKSĐQ ngày 25/11/2019 bổ sung về phần trách nhiệm dân sự, đề nghị tuyên buộc bị cáo H phải bồi thường cho bị hại số tiền 25.854.170đ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Trần M H phạm tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị xử phạt bị cáo Trần M H: từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, Viện kiểm sát đề nghị:

Tch thu tiêu hủy 01 can nhựa màu trắng (loại 10 lít, đã bị cháy một phần); 01 bật lửa màu vàng; 01 cây cơ bi da dài 68 cm (đã bị gãy).

Về trách nhiệm dân sự, Viện kiểm sát đề nghị: Buộc bị cáo Trần M H có trách nhiệm bồi thường cho ông Lê V K theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu, nhận thức được hành vi của mình là sai, ăn năn hối hận với hành vi phạm tội của bản thân.

Đi với trách nhiệm dân sự tại phiên tòa bị cáo Trần M H đồng ý bồi thường cho ông Lê V K số tiền 25.854.170 đồng.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về căn cứ buộc tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo Trần M H có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án nên đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 24/7/2019, tại nhà của ông Lê V K ở ấp 7, xã T, huyện Định Quán, Trần M H đã có hành vi dùng xăng (hóa chất nguy hiểm) đổ xuống nền nhà và bật lửa đốt làm ông Kbị bỏng với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%. Hành vi dùng hóa chất nguy hiểm được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, nhưng do thương tích gây ra cho ông Klà 11% nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự Hành vi do bị cáo bị cáo Trần M H đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán truy tố bị cáo H theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ khả năng lựa chọn những cách xử sự phù hợp khi nhận thức được rằng việc dùng xăng (hóa chất nguy hiểm) châm lửa đốt có sẽ gây ra những thương tích nặng nề cho người khác, thậm chí có thể dẫn đến tử vong, hoặc có thể dẫn đến hỏa hoãn gây hậu quả nặng nề về tính mạng con người cũng như về tài sản. Nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi đỗ xăng châm lửa đốt nên đã gây ra cho bị hại tỷ lệ thương tật là 11%. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe của ông Lê V K mà còn thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Trần M H là người có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa ông Lê V K yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe tổng số tiền 25.854.170đ. Bị cáo H đồng ý bồi thường cho ông Ksố tiền này. Xét thấy sự thỏa thuận của bị cáo, bị hại không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại tại phiên tòa.

[9] Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 can nhựa màu trắng (loại 10 lít, đã bị cháy một phần);

01 bật lửa màu vàng; 01 cây cơ bi da dài 68 cm (đã bị gãy).

[10] Về vấn đề khác:

Đi với ông Lê V K, đã có hành vi dùng cây cơ để chơi “bi da” đánh Trần M H nhưng không gây thương tích nên Cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định.

Đi với bà Nguyễn Thị B, khi bán xăng cho H, bà B không biết H mua xăng nhằm mục đích gây thương tích cho anh Knên Cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định.

Đi với xe mô tô (không có biển số) mà Trần M H sử dụng để đi mua xăng, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là của ông Trần Đình Q1 – sinh năm 1952 (là cha ruột của bị cáo H). Việc H sử dụng xe mô tô trên đi mua xăng đốt gây thương tích cho ông Kthì ông Q1 không biết nên Cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe trên là đúng quy định.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[12] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 4 Luật hóa chất;

Căn cứ Điều 30, Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 468, Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo Trần M H (tên gọi khác H1) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trần M H (tên gọi khác H1): 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo, bị hại. Buộc bị cáo Trần M H (tên gọi khác H1) phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông Lê V K số tiền 25.854.170đ (Hai mươi lăm triệu tám trăm năm mươi bốn ngàn một trăm bảy mươi đồng). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán thì hàng tháng còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Bị cáo Trần M H (tên gọi khác H1) phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và phải chịu 1.292.709đ (Một triệu hai trăm chín mươi hai ngàn bảy trăm lẻ chín đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 can nhựa màu trắng (loại 10 lít, đã bị cháy một phần); 01 bật lửa màu vàng; 01 cây cơ bi da dài 68 cm (đã bị gãy).

(Vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Quán theo Quyết định chuyển vật chứng số 146/QĐ-VKS-HS ngày 04/11/2019; biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/11/2019).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;