Bản án 104/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 98/2020/TLST- HS ngày 16 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Vũ Hoài L (tên gọi khác: Không) sinh năm 1997 tại Ninh Bình. Nơi cư trú: thôn KH, xã NP, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn M và bà Tạ Thị Ơ; vợ: Nguyễn Thị Hương T và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/02/2020 đến ngày 26/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

2. Đinh Công B (tên gọi khác: Không) sinh năm 1999 tại Ninh Bình. Nơi cư trú: Đội M, xóm ĐH, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công L và bà Trần Thị N; vợ: Bùi Thị P; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/02/2020 đến ngày 26/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Lê Văn V sinh năm 1984;

Nơi cư trú: Phố CH, thị trấn TT, huyện HL, tỉnh Ninh Bình. “Vắng mặt”.

- Người làm chứng: anh Đỗ Đức T. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Hoài L, Đinh Công B là bạn bè quen biết nhau từ trước và đều là đối tượng sử dụng ma túy, khoảng 19 giờ 30 phút ngày 20/02/2020 L nhận được điện thoại từ số điện thoại 0865.140.163 của bạn tên là H ở huyện NQ, tỉnh Ninh Bình rủ sử dụng ma túy và H nói với L đưa điện thoại của H để L cầm cố lấy tiền mua ma túy, L đồng ý. Sau đó L rủ Đinh Công B đi uống nước tại quán nước ở khu vực thị trấn TT, huyện HL, quá trình ngồi uống nước L nói chuyện với B về việc H là bạn của L rủ sử dụng ma túy, B đồng ý. Khoảng 10 phút sau thì H đi xe máy đến và đưa cho L 01 chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng có ốp lưng màu đen bảo L mang đi cầm cố lấy tiền mua ma túy còn H đợi tại quán nước chờ L đi mua ma túy về cùng sử dụng, L và B mang chiếc điện thoại H đưa đi cầm cố tại cửa hàng điện thoại của anh Lê Văn V sinh năm 1984 ở phố CH, thị trấn TT, huyện HL được 500.000 đồng rồi L dùng xe môtô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 31- 137-Y6 chở B sang khu vực xã YB, huyện YY, tỉnh Nam Định mua ma túy, trên đường đi L và B lấy 100.000 đồng đổ xăng, uống nước còn lại 400.000 đồng L mua 01 gói ma túy đá của một người đàn ông không quen biết ở khu vực ven đường Quốc lộ 10 thuộc xã YB, huyện YY, tỉnh Nam Định, mua được ma túy L đưa cho B cầm rồi chở B quay về thị trấn TT, huyện HL. Đến hồi 21 giờ cùng ngày khi L và B về đến khu vực đường LTV, phố M, phường ĐT, thành phố Ninh Bình thì bị Tổ công tác Công an phường Ninh Phong phối hợp với công an phường ĐT yêu cầu dừng xe kiểm tra, thấy vậy B ném túi ma túy đang cầm ở tay phải xuống đường nhưng đã bị Tổ công tác phát hiện yêu cầu B nhặt lên giao nộp, B chấp hành nhặt túi ma túy lên giao nộp và khai nhận đó là túi ma túy đá B và L vừa mua ở khu vực xã YB, huyện YY, tỉnh Nam Định về sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ của B 01 túi ni lon màu trắng kích thước 1 x 1,5cm bên trong có chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của Vũ Hoài L 01 môtô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 31-137-Y6 màu mận chín số khung 0089652, số máy C100 MNE 0089652, 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu đen; thu giữ của Đinh Công B 01 điện thoại Iphone 6; thu giữ tại cửa hàng điện thoại của anh Lê Văn V ở thị trấn TT, huyện HL, tỉnh Ninh Bình 01 điện thoại Iphone 5 S màu trắng có ốp lưng màu đen.

Tiến hành cân xác định trọng lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đinh Công B, Vũ Hoài L có trọng lượng 0,310 gam ký hiệu M gửi đi giám định xác định loại ma túy, khối lượng ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 72/KLGĐ-PC54-MT ngày 24/02/2020 của Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3028 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hoàn trả mẫu vật giám định có khối lượng 0, 2148 gam Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

Tại bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 15/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Vũ Hoài L, Đinh Công B ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố các bị cáo Vũ Hoài L, Đinh Công B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Hoài L từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 21/02/2020.

Xử phạt bị cáo Đinh Công B từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 21/02/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc Vũ Hoài L trả lại cho anh Lê Văn V số tiền 500.000 đồng.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói ban đầu;

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu đen thu giữ của Vũ Hoài L.

- Buộc các bị cáo Vũ Hoài L, Đinh Công B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; buộc bị cáo Vũ Hoài L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ ngày 20/02/2020 tại khu vực đường LTV, phố 11, phường ĐT, thành phố Ninh Bình. Vũ Hoài L, Đinh Công B có hành vi cất giấu 0,3028 gam Methamphetamine nhằm mục đích cùng nhau sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố các bị cáo Vũ Hoài L, Đinh Công B với tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, không những đã xâm phạm trực tiếp tới sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn gây mất ổn định trật tự trị an, an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma tuý và sự nghiêm trị của pháp luật đối với những hành vi trái phép liên quan đến ma tuý. Tuy nhiên, vì muốn thoả mãn ý thích cá nhân, các bị cáo cố tình mua ma túy để sử dụng dẫn đến phạm tội.

Trong vụ án có hai bị cáo tham gia, xong không mang tính chất tổ chức, mà ồng phạm tính chất giản đơn. Bị cáo Vũ Hoài L là người rủ bị cáo Đinh Công B đi mua ma túy về sử dụng, là người trực tiếp mua ma túy vì vậy bị cáo L là người có vai trò chính trong vụ án; Bị cáo Đinh Công B đồng phạm với vai trò giúp sức.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo đều không có tiền án tiền sự, có nhân thân tốt.

Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và cần có hình phạt đối với các bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Như vậy, mới có tác dụng trực tiếp giáo dục, cải tạo các bị cáo từ bỏ ma tuý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về nguồn gốc ma túy: Về nguồn gốc số Methamphetamine thu giữ của Vũ Hoài L, Đinh Công B, các bị cáo khai mua của một người không quen biết ở khu vực xã YB, huyện YY, tỉnh Nam Định, nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu thu giữ của Vũ Hoài L, Đinh Công B cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu đen thu giữ của Vũ Hoài L là đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội của Vũ Hoài L cần tịch thu sung ngân sách nhà nước [5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn V là người nhận cầm cố chiếc điện thoại Iphone 5 do Vũ Hoài L, Đinh Công B; anh V không biết L, B cầm cố chiếc điện thoại để lấy tiền mua ma túy sử dụng. Nay anh V yêu cầu L, B phải có trách nhiệm trả lại số tiền 500.000 đồng tiền cầm cố chiếc điện thoại cho anh. Tại phiên Tòa bị cáo Vũ Hoài L nhận trách nhiệm trả lại số tiền 500.000 đồng cho anh Lê Văn V theo đề nghị của anh V. Xét yêu cầu của anh V là có căn cứ cần chấp nhận.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với 01 môtô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 31 -137-Y6 màu mận chín thu giữ của Vũ Hoài L. Quá trình điều tra xác định cuối tháng 12/2018 L mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực bến xe Giáp Bát, thành phố Hà Nội, khi mua xe không có giấy tờ. Tra cứu số khung, số máy chiếc xe nêu trên mang biển kiểm soát 43N1 - 36660 chủ phương tiện mang tên chị Đoàn Phùng Thúy L trú tại quận HC, thành phố Đà Nẵng. Tra cứu hệ thống xe vật chứng trùng với số khung, số máy của xe mô tô bị mất trộm ngày 11/5/2006 tại ÔCD, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội.

Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình đã xác minh tại Công an phường ÔCD kết quả: ngày 11/5/2006 Công an quận ÔCD nhận được tin báo của chị Đoàn Phùng Thùy L, trú tại C, tổ K, phường ÔCD về việc bị mất chiếcxe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 43N1 - 36660 tại địa bàn phường ÔCD. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe nói trên chuyển Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận ĐĐ, thành phố Hà Nội tiếp tục điều tra làm rõ.

Đối với 01 điện thoại di động Đối với Chiếc điện thoại di động iphone 5s thu tại quán điện thoại của anh Lê Văn V, do L, B mang đến cầm cố, quá trình điều tra xác định thuê bao số điện thoại là của Nguyễn Văn H ở NQ, Ninh Bình, phù hợp với lời khai của L là H đưa điện thoại cho L đi cầm cố để lấy tiền mua ma túy. Hiện nay H không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình tách phần tài liệu và chiếc điện thoại iphone 5s liên quan đến hành vi của H để tiếp tục điều tra xác minh là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Vũ Hoài L, Đinh Công B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Hoài L 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 21/02/2020.

Xử phạt bị cáo Đinh Công B 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 21/02/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc Vũ Hoài L trả lại cho anh Lê Văn V số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự ; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu thu giữ của Vũ Hoài L, Đinh Công B.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu đen thu giữ của Vũ Hoài L.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/7/2020).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Vũ Hoài L, Đinh Công B mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo Vũ Hoài L phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án 16/7/2020; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 104/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;