TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 103/2019/HC-PT NGÀY 25/07/2019 VỀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
Ngày 25 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số 107/2019/TLPT-HC ngày 25 tháng 02 năm 2019 về việc “yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2018/HC-ST ngày 22/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 807/2019/QĐ-PT ngày 12 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Võ Công Đ; địa chỉ: Đồi 82 Thôn H3, Xã V, Thành phố N, Khánh Hòa.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Như H; địa chỉ: 16 đường M, phường P, Thành phố N, Khánh Hòa (theo giấy ủy quyền số công chứng 297/2018-Quyển số 01/TP/CC-SCC/GUQ ngày 05/4/2018 của Văn phòng công chứng K) – Có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố N; địa chỉ: Số 42 đường L2, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huy T, chức vụ - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N (theo giấy ủy quyền số 674/UBND-VP ngày 26/01/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N) – Vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Hoàng Trọng L và ông Phan Đ, nhân viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N; địa chỉ: Số 159 đường H4, Thành phố N, Khánh Hòa – Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Chí H1; địa chỉ: số 452 đường X, phường V1, Thành phố N, Khánh Hòa – Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Hồng H2, luật sư Văn phòng Luật sư Nguyễn Hồng H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa; Có mặt.
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Chí H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện ngày 21/12/2017, bản tự khai, biên bản đối thoại và quá trình tố tụng, người khởi kiện là ông Võ Công Đ và người đại theo ủy quyền là ông Vũ Như H trình bày:
Ngày 12/10/2010, ông Võ Công Đ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Ngạc Thị Bích L1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 824431, số vào sổ cấp GCN: H08589 do Ủy ban nhân dân thành phố N (sau này được viết tắt là UBND TP N) cấp ngày 28/3/2006, thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, xã V, Thành phố N với diện tích 16.000m2, thời hạn sử dụng đất đến ngày 01/6/2045. Ngày 20/12/2010, UBND Thành phố N chỉnh lý thay đổi người sử dụng đất là ông Võ Công Đ. Do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp theo Luật đất đai năm 2003, nên tháng 12/2017 ông Đ làm thủ tục đo vẽ để xin cấp đổi “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” thành “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” (theo mẫu mới nhất) thì không được Văn phòng đăng ký đất đai Khánh Hòa - Chi nhánh Thành phố N chấp thuận. Lý do Văn phòng đăng ký đất đai không chấp thuận bản vẽ để thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ là vì: Ngày 10/10/2017, UBND Thành phố N đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Chí H1 một phần diện tích đất thuộc thửa đất của ông Võ Công Đ. Cụ thể, ông Nguyễn Chí H1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751 số vào sổ cấp GCN: CH 06635, thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14; địa chỉ: Thôn H3, xã V, thành phố N, diện tích 1938m2, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm, thời hạn sử dụng đến ngày 01/7/2064, nguồn gốc sử dụng đất là “Công nhận QSDĐ như giao đất không thu tiền sử dụng đất”.
Việc ông Nguyễn Chí H1 được UBND Thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích thuộc thửa đất của ông Đ là trái pháp luật, vì:
+ Một diện tích đất không thể cấp Giấy chứng nhận cho hai người không phải là sở hữu chung; nếu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Chí H1 thì UBND Thành phố N phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Võ Công Đ. Ông Đ là chủ sở hữu quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 824431, số vào sổ cấp GCN: H08589 do chính UBND thanh phố N cấp ngày 28/3/2006 đối với thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570 thuộc xã V, Thành phố N với diện tích 16.000 m2.
+ Nguồn gốc đất của ông Đ rất rõ ràng: Năm 1994-1995, ông Tôn Thất H5 được Nhà nước giao đất để trồng rừng và được UBND Thành phố N cấp Giấy chứng nhận. Sau đó, ông H5 chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất trên cho ông Nguyễn Văn T1 có xác nhận của UBND xã V. Bà Ngạc Thị Bích L1 được thừa kế từ ông T1 và sau đó bà Ngạc Thị Bích L1 chuyển nhượng cho ông Đ, nay bà Ngạc Thị Bích L1 ở đâu ông Đ không biết.
+ Từ trước đến nay, ông H1 không phải là người sử dụng lô đất nêu trên.
+ Ủy ban nhân dân thành phố N có Văn bản số 675/UBND- TNMT ngày 26/01/2018 nêu ý kiến đối với đơn khởi kiện của ông Võ Công Đ, khẳng định “cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 06635 ngày 10/10/2017 cho ông Nguyễn Chí H1 là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật đất đai năm 2013” vì khi ông Nguyễn Chí H1 xin cấp Giấy chứng nhận “UBND xã V đã niêm yết nhưng không có khiếu nại tranh chấp”. Đây là sự trả lời thờ ơ, vô cảm và rất thiếu trách nhiệm của UBND Thành phố N. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 101 Luật đất đai năm 2013 là cấp cho “hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất”. Còn trường hợp này, đất mà ông Nguyễn Chí H1 xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được chính UBND TP N cấp cho ông Võ Công Đ. Như vậy, cùng một diện tích đất nhưng tồn tại hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất? vậy Giấy chứng nhận nào có hiệu lực? nếu trả lời như UBND Thành phố N thì bất cứ cá nhân, tổ chức nào xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kể cả đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận cho người khác thì UBND vẫn cấp Giấy chứng nhận cho người có yêu cầu nếu sau khi niêm yết không ai khiếu nại?
Vì vậy, ông Võ Công Đ yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751 số vào sổ cấp GCN: CH 06635 do UBND Thành phố N đã cấp ngày 10/10/2017 cho ông Nguyễn Chí H1 đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14; địa chỉ: Thôn H3, xã V, thành phố N, diện tích 1938m2.
2. Tại văn bản số 675/UBND-TNMT ngày 26/01/2018 của UBND thành phố N và quá trình tố tụng, người bị kiện là UBND thành phố N, người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày:
Năm 2017, ông Nguyễn Chí H1 lập thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 8, tờ bản đồ số 14, xã V và được UBND xã V xác nhận tại biên bản họp xét ngày 27/7/2017 như sau: Thửa số 8, tờ bản đồ số 14, xã V có nguồn gốc đất gồm 2 phần.
Phần 1: Do ông Nguyễn Chí C1 khai hoang và sử dụng từ trước năm 1992. Đến năm 1992, ông Nguyễn Chí C1 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Chí S1 và bà Dương Thị N1 với diện tích 1500m2 (được UBND xã V xác nhận ngày 20/8/1992).
Phần 2: Ông Nguyễn Văn K1 khai hoang trước năm 1992. Đến năm 1994, ông Nguyễn Văn K1 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Chí S1 và bà Dương Thị N1 với diện tích 550m2.
Năm 1999, ông Nguyễn Chí S1 và bà Dương Thị N1 tặng cho con là ông Nguyễn Chí H1 (được UBND xã V xác nhận ngày 13/7/1999) và sử dụng ổn định. UBND xã V đã niêm yết công khai hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Chí H1 theo danh sách công khai ngày 27/7/2017. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 27/7/2017 đến ngày 11/8/2017 không bị khiếu nại, tranh chấp.
Sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố N chuyển hồ sơ cho Phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm tra và ban hành Tờ trình số 2202/TTr-GCN ngày 05/10/2017 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Chí H1 đối với thửa đất trên. Theo đó, UBND Thành phố N đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 06635 ngày 10/10/2017 cho ông Nguyễn Chí H1 là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật đất đai năm 2013 và không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Võ Công Đ.
3. Tại bản tự khai ngày 17/04/2018 và quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Chí H1 trình bày:
Ngày 10/10/2017, UBND Thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06635 đối với thửa số 8 tờ bản đồ số 14, xã V thành phố N, Khánh Hòa cho ông. Căn cứ vào các giấy tờ nguồn gốc đất từ năm 1992 có xác nhận của UBND xã V thì phần đất của ông không chồng lấn với diện tích đất của ông Võ Công Đ. Tại công văn số 675/UBND-TNMT ngày 26/01/2018 của UBND Thành phố N đã nêu cụ thể vấn đề yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông mà ông Võ Công Đ khởi kiện. Nay ông yêu cầu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Võ Công Đ, giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 06635 ngày 10/10/2017 đã cấp cho ông Nguyễn Chí H1.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2018/HC-ST ngày 22/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Áp dụng Điều 99, 100 và Điều 101 Luật đất đai năm 2013.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Võ Công Đ. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751 số vào sổ cấp GCN: CH 06635 do Ủy ban nhân dân thành phố N cấp ngày 10/10/2017 cho ông Nguyễn Chí H1 đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14; địa chỉ: Thôn H3, xã V, thành phố N, diện tích 1938m2.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/12/2018, ông Nguyễn Chí H1 kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2018/HC-ST ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và ông Nguyễn Chí H1 trình bày giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án hành chính sơ thẩm để xét xử lại.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm.
+ Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm đến trước nghị án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện việc tuân theo pháp luật đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
+ Về nội dung vụ án: Diện tích 1938,0m2 đất UBND thành phố N cấp cho ông Nguyễn Chí H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 06635 ngày 10/10/2017 tại thửa đất số 8, tờ bản số 14 nằm trong một phần của diện tích16.000,0m2 đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 824431, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H08580 ngày 28/3/2006do Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa cấp cho bà Ngạc Thị Bích L1. Bà L1 đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích này cho ông Võ Công Đ. Việc UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Chí H1 là vi phạm Luật đất đai năm 2013. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Công Đ là đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Chí H1 không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho kháng cáo là có căn cứ. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Chí H1. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2018/HC-ST ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Sau khi nghe đương sự trình bày, tranh luận, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; sau khi thảo luận, nghị án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Chí H1:
Diện tích 16.000,0m2 đất ông Nguyễn Văn T1 được Ủy ban nhân dân thành phố N chứng nhận tại thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, thời hạn sử dụng đất đến tháng 6 năm 2045, tại địa chỉ xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H03904 ngày 29/7/2005 (BL-54). Bà Ngạc Thị Bích L1 nhận thừa kế của ông Nguyễn Văn T1 theo biên bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 38 ngày 10/02/2006, diện tích 16.000,0m2 tại thửa số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, xã V và được chỉnh lý biến động sang tên bà Ngạc Thị Bích L1 ngày 10/3/2006. Ngày 28/3/2006, Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa chứng nhận cho bà Ngạc Thị Bích L1 được quyền sử dụng thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, diện tích 16.000,0m2, thời hạn sử dụng đất đến ngày 01 tháng 6 năm 2045, tại địa chỉ xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 824431, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H08580 (BL-95,96). Ngày 12/10/2010, bà Ngạc Thị Bích L1 chuyển nhượng cho ông Võ Công Đ quyền sử dụng đất là 16.000,0m2, thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, tại địa chỉ xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa và tài sản gắn liền với đất là rừng cây bạch đàn. Được Phòng công chứng số 1 tỉnh Khánh Hòa chứng thực số 2330, quyển số CNTP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/10/2010 (BL-89-91). Ngày 20/12/2010 được chỉnh lý biến động sang tên ông Võ Công Đ.
Ngày 10/10/2017, Ủy ban nhân dân thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 06635 cho ông Nguyễn Chí H1 được sử dụng thửa đất số 8, tờ bản số 14, diện tích 1938,0m2, thời hạn sử dụng đất đến ngày 01 tháng 7 năm 2064, tại địa chỉ xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (BL-67,68). Ngày 16/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với thửa đất số 01, lô d, khoảnh I, tờ bản đồ tiểu khu 570, tại địa chỉ xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa và thửa đất số 8, tờ bản số 14, diện tích 1938,0m2 tại Thôn H3, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Kèm theo trích đo địa chính lô đất ngày 10/7/2018 do Công ty TNHH TV&DV đo đạc bản đồ Đ1 thể hiện diện tích đất của ông Võ Công Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H08819 là diện tích 16.000,0m2.
Năm 2010, ông Nguyễn Chí H1 gửi đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa số 01, tờ bản đồ số 01 (thuộc tiểu khu 570) và đã được Văn phòng đăng ký đất đai thành phố N trả lời là không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lý do đất đang bị bà Ngạc Thị Bích L1 tranh chấp (BL-57). Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2017/DS- PT ngày 14/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc “đòi lại quyền sử dụng đất” đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Kèm theo bản án là sơ đồ bản vẽ lập ngày 26/7/2016 thể hiện: Tổng diện tích 16.000,0m2 (bao gồm phần A + B + C) vị trí, diện tích đúng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H08589 ngày 28/3/2006. Trong đó, phần diện tích đất không có tranh chấp (B) 3802,1m2 + (C) 2502,5m2 = 6304,6m2 (BL-42).
Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên thể hiện: Diện tích 16.000,0m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận từ năm 2005 cho ông Nguyễn Văn T1. Năm 2010, ông Võ Công Đ nhận chuyển nhượng 16.000,0m2 đất từ bà L1 là người nhận thừa kế của ông T1 và ông Đ đã được chỉnh lý biến động năm 2010. Còn diện tích 1938,0m2 đất theo giấy chứng nhận năm 2017 cấp cho ông Nguyễn Chí H1 là cấp sau diện tích 16.000,0m2 và nằm trong một phần diện tích 16.000,0m2 của ông Võ Công Đ đã được chỉnh lý biến động năm 2010. Việc Ủy ban nhân dân thành phố N cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Chí H1 đối với diện tích 16.000,0m2 là vi phạm luật đất đai năm 2013.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Nguyễn Chí H1 không cung cấp được chứng cứ nào mới để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ, do vậy Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Nguyễn Chí H1, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Chí H1 đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án hành chính sơ thẩm để xét xử lại là không có căn cứ.
[2] Án phí hành chính phúc thẩm: Do bác đơn kháng cáo, nên ông Nguyễn Chí H1 phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Bác đơn kháng cáo của ông Nguyễn Chí H1. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2018/HC-ST ngày 22/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Điều 99; Điều 100; Điều 101 Luật đất đai năm 2013. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Võ Công Đ. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 767751, số vào sổ cấp GCN: CH 06635 do Ủy ban nhân dân thành phố N cấp ngày 10/10/2017 cho ông Nguyễn Chí H1 đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14; địa chỉ: Thôn H3, xã V, thành phố N, diện tích 1938,0m2.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Chí H1 phải chịu 300.000đ, được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm tại biên thu số 0750 ngày 20/12/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa (ông H1 đã nộp đủ).
Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 103/2019/HC-PT ngày 25/07/2019 về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Số hiệu: | 103/2019/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 25/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về