Bản án 10/2021/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 206/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1, Họ và tên: Nguyễn Công Tr (tên gọi khác: không); sinh năm: 1992 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: khối 15, phường QuX, thị xã HM, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Công Ph và con bà: Ngô Thị H; vợ, con: Hồ Thị H1 và 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: từ ngày 11/11/2020 đến ngày 14/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

2, Họ và tên: Lê Văn Th (tên gọi khác: không); sinh năm: 1975 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn 17, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn L và con bà: Nguyễn Thị K; vợ, con: Hồ Thị Nh và 04 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: từ ngày 03/11/2020 đến ngày 12/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

3, Họ và tên: Đậu Đức Đ (tên gọi khác: không); sinh năm: 1975 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn 18, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đậu Đức B và con bà: Lê Thị T; vợ, con: Nguyễn Thị V và 03 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 29/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, về tội “Đánh bạc” (bản án số 83/2011/HSST); tạm giữ: từ ngày 03/11/2020 đến ngày 12/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

4, Họ và tên: Lê Văn Đ1 (tên gọi khác: không); sinh năm: 1975 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn 17, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn T và con bà: Nguyễn Thị D; vợ, con: Hồ Thị Th và 04 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 24/3/2004 bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, ngày 17/6/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 07 (bảy) tháng tù, về tội “Đánh bạc”, đã được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích số 25/2015/GCN-CA ngày 30/12/2015; tạm giữ: từ ngày 03/11/2020 đến ngày 12/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

5, Họ và tên: Hồ Sỹ Qu (tên gọi khác: không); sinh năm: 1989 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn 13, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Sỹ V và con bà: Hồ Thị L; vợ, con: Lê Thị H và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: từ ngày 03/11/2020 đến ngày 12/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

6, Họ và tên: Nguyễn Đình T (tên gọi khác: không); sinh năm: 1984 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn 16, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Xuân Tr và con bà: Lê Thị Th; vợ, con: Nguyễn Thị Th1 và 01 con sinh năm 2010; tiền án: không; tiền sự: ngày 26/02/2020 bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” với số tiền 1.500.000 đồng; tạm giữ: từ ngày 03/11/2020 đến ngày 12/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1989. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h30 phút, ngày 03/11/2020 Nguyễn Công Tr đến nhà Nguyễn Đình T tại thôn 16, xã QV, huyện Quỳnh Lưu để trả tiền mua điện thoại di động. Một lúc sau, Lê Văn Th cũng đến nhà T để sửa điện thoại. Trong lúc ngồi đợi, Tr rủ Th đánh phỏm, Th đồng ý và trải chiếu ở góc nhà phía tây, Tr lấy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 (năm hai) quân tại bàn uống nước rồi ngồi xuống chiếu, hai người đánh phỏm, mỗi ván 20.000đ (hai mươi ngàn đồng). Đánh được 02 (hai) ván thì có Đậu Đức Đ, Hồ Văn Qu và Lê Văn Đ1 cũng lần lượt đến nhà T, xin đánh bạc với Tr và Th. Mọi người chuyển sang đánh bài mười (bài cào), sử dụng 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 (năm hai) quân có sẵn, bỏ các quân 10, J, Q và K, dùng 36 (ba sáu) quân từ A đến 9. Đặt cược mỗi ván từ 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) đến 100.000đ (một trăm nghìn đồng) đánh với người cầm chương. Mỗi người được phát 3 quân bài/1 lượt chơi. Điểm số 3 quân bài được tính tương ứng với quân bài từ A đến 9, số điểm tối đa là 10, nếu vượt qua 10 (mười) thì tính hàng đơn vị. Người có điểm cao hơn người cầm chương thì thắng, được trả số tiền bằng số tiền đã đặt cược và được cầm chương, ngược lại nếu thua thì sẽ mất số tiền đặt cược cho người cầm chương. Trong quá trình mọi người đánh bạc T không tham gia nhưng có hành vi cho mọi người sử dụng nhà mình quản lý để đánh bạc và đóng cửa. Đánh đến 16h45 phút cùng ngày thì bị Công an xã Quỳnh Văn bắt quả tang Th, Đ, Đ1, Qu, T thu giữ tại chiếu bạc 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 36 (ba sáu) quân, số tiền 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng), thu trong người Th 5.280.000đ (năm triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng), thu tại chỗ Qu ngồi 620.000đ (sáu trăm hai mươi nghìn đồng), thu trong người Đ 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng), thu của Đ1 1.390.000đ (một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng). Tr bỏ trốn đến ngày 11/11/2020 ra đầu thú.

Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo Tr, Th, Đ, Đ1, Qu sử dụng đánh bạc 8.420.000đ (tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng), bao gồm: tiền thu tại chiếu bạc 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng), tiền thu của Th 5.100.000đ (năm triệu một trăm nghìn đồng), thu tại chỗ của Qu 620.000đ (sáu trăm hai mươi nghìn đồng), tiền Đ sử dụng đánh bạc 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc: Nguyễn Công Tr - 1.035.000đ (một triệu không trăm ba mươi lăm nghìn đồng), Lê Văn Th – 3.000.000đ (ba triệu đồng), Đ - 100.000đ (một trăm nghìn đồng), Lê Văn Đ1 – 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng), Hồ Sỹ Qu - 420.000đ (bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Nguyễn Đình T sử dụng nhà mình và đóng cửa cho mọi người đánh bạc.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-QL ngày 25/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố các bị cáo Nguyễn Công Tr, Lê Văn Th, Đậu Đức Đ, Lê Văn Đ, Hồ Sỹ Qu và Nguyễn Đình T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Nguyễn Công Tr, Lê Văn Th, mỗi bị cáo từ 15- 18 tháng Cải tạo không giam giữ.

Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn Đ1 từ 15-18 tháng Cải tạo không giam giữ.

Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đậu Đức Đ từ 12-15 tháng Cải tạo không giam giữ.

Khoản 1 Điều 321; điểm i, s, v khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Sỹ Qu từ 12-15 tháng Cải tạo không giam giữ.

Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 12-15 tháng Cải tạo không giam giữ.

Khấu trừ thu nhập mỗi bị cáo từ 500.000đ-700.000đ/tháng trong thời gian thi hành án Cải tạo không giam giữ.

Vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 8.420.000đ (tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng), trả lại cho Lê Văn Th 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng), Đậu Đức Đ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), Lê Văn Đ1 1.390.000đ (một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) trong tổng số tiền 10.490.000đ (mười triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng) hiện đang tạm giữ tại tài khoản của Công an huyện Quỳnh Lưu tại Kho bạc Nhà nước huyện Quỳnh Lưu. Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh đen, đã qua sử dụng cho Nguyễn Công Tr.

Án phí: buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: đều xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Công Tr, Lê Văn Th, Đậu Đức Đ, Lê Văn Đ1, Hồ Sỹ Qu và Nguyễn Đình T khai nhận: được sự cho phép của T, trong khoảng thời gian từ 15h30 phút đến 16h45 phút, ngày 03/11/2020, tại nhà T (thôn 16, xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) các bị cáo sử dụng 36 quân bài tú lơ khơ đánh bài mười với số tiền 8.420.000đ (tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Các bị cáo không được nhà nước cho phép, đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền, bị cáo T không trực tiếp đánh bạc nhưng sử dụng nhà mình quản lý cho các bị cáo đánh bạc, đóng cửa che dấu hành vi đánh bạc của các bị cáo nên đồng phạm với vai trò giúp sức. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý, vì mục đích thu lợi bất chính. Như vậy hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, đồng phạm giản đơn, nên cần xem xét vai trò, nhân thân của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt cho phù hợp. Tr khởi xướng, Th và Đ1 sử dụng số tiền nhiều, nên hình phạt phải cao hơn các bị cáo còn lại. Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, đều có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Tr, Th, Qu, T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo Qu được tặng thưởng Giấy khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tr đầu thú. Th, Đ có bố là người có công được tặng thưởng huân huy chương. Các bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Có khả năng tự cải tạo, việc được ở ngoài xã hội không gây nguy hiểm hay ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, không cần thiết phải cách ly mà giao cho chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích. Xử phạt cải tạo không giam giữ và khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% với mức chung khoảng 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) đối với các bị cáo Tr, Th, Đ1. Phạt tiền các bị cáo Đ, Qu, T.

[6] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo đã bị phạt tiền, khấu trừ thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Xử lý vật chứng: 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 36 quân các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, tiêu hủy. Số tiền 10.490.000đ (mười triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng) đang được tạm giữ tại tài khoản của Công an huyện Quỳnh Lưu gồm có: 8.420.000đ (tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng) các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; số tiền các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho Th 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng), Đ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), Đ1 1.390.000đ (một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng). 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh đen của Nguyễn Công Tr không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho Triển.

[8] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Công Tr 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải thi hành 14 (mười bốn) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày. Về tội: Đánh bạc.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn Th 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 09 ngày tạm giữ bằng 27 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải thi hành 14 (mười bốn) tháng 03 (ba) ngày. Về tội: Đánh bạc.

- Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn Đ1 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 09 ngày tạm giữ bằng 27 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải thi hành 14 (mười bốn) tháng 03 (ba) ngày. Về tội: Đánh bạc.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân nơi các bị cáo Tr, Th, Đ1 cư trú nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Công Tr cho Ủy ban nhân dân xã QuX, thị xã HM, tỉnh Nghệ An để giám sát, giáo dục.

Giao các bị cáo Lê Văn Th, Lê Văn Đ1 cho Ủy ban nhân dân xã QV, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để giám sát, giáo dục.

Khấu trừ thu nhập của các bị cáo Nguyễn Công Tr, Lê Văn Th và Lê Văn Đ1, mỗi bị cáo 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng)/tháng trong thời gian thi hành án Cải tạo không giam giữ.

- Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt phạt tiền bị cáo Đậu Đức Đ số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Về tội: Đánh bạc.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s, v khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt phạt tiền bị cáo Hồ Sỹ Qu số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Về tội: Đánh bạc.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt phạt tiền bị cáo Nguyễn Đình T số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Về tội: Đánh bạc.

2. Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 36 (ba mươi sáu) quân bài:

trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh đen, số seri 357134067070512, máy đã qua sử dụng cho Nguyễn Công Tr. (Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu ngày 28/12/2020).

Số tiền 10.490.000đ (mười triệu bốn trăm chín mươi ngàn đồng) hiện đang tạm giữ tại tài khoản số 3591.0.9014412.00000 của Công an huyện Quỳnh Lưu có tại Kho bạc Nhà nước huyện Quỳnh Lưu theo Giấy nộp tiền ngày 09/12/2020 được xử lý như sau: tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 8.420.000đ (tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng); trả lại cho: Lê Văn Th 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng), Đậu Đức Đ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), Lê Văn Đ1 1.390.000đ (một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc các bị cáo Nguyễn Công Tr, Lê Văn Th, Đậu Đức Đ, Lê Văn Đ1, Hồ Sỹ Qu và Nguyễn Đình T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: các bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;