Bản án 10/2020/HSST ngày 04/05/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 10/2020/HSST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2020/HSST ngày 05 tháng 03 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: NGUYN VĂN NH (không có tên gọi khác); Sinh ngày 06 tháng 5 năm 1964. Tại Q, tỉnh Q; Nơi cư trú: Thôn C, xã T, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 04/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn B (đã chết); Con bà Phạm Thị L (đã chết); Có vợ là Dương Thị B (đã chết), Bị cáo có 01 con sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 02/02/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Yên H (nay là thị xã Q) xử phạt 42 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 22/12/2004, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Bị cáo bị bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 26/11/2019, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: NGUYN TRỌNG KH (không có tên gọi khác); Sinh ngày 07 tháng 02 năm 1972. Tại Q, tỉnh Q; Nơi cư trú: Khu R, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Đắc Kh, sinh năm 1948; Con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1947; Có vợ là: Đặng Thị H, sinh năm 1976; Có bốn con: Con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26/11/2019, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: NGUYN VĂN H (không có tên gọi khác); Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1985. Tại Q, tỉnh Q; Nơi cư trú: Khu 2, phường Y, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn K, sinh năm 1952; Con bà Bùi Thị B, sinh năm 1954; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Chưa.

- Tiền án: Ngày 13/11/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 09/12/2011 về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999.

- Nhân thân:

+ Ngày 28/8/2005, Tòa án nhân dân huyện Yên H (nay là thị xã Q) xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

+ Ngày 31/01/2007, Tòa án nhân dân huyện Y (nay là thị xã Q) xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Tổng hợp hình phạt với 12 tháng án treo, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 27 tháng tù.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26/11/2019, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Q, tỉnh Q. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 Nơi cư trú: Khu 5, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Khu T, phường T, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt.

3. Chị Lê Thị T, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 50 phút ngày 26/11/2019, tại khu 8, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần H đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng, được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kẹp, bên trong túi có chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục. Cơ quan điều tra tiến hành niêm phong theo quy định Tại Cơ quan điều tra, H khai: Hội sử dụng ma túy loại Methamphetamine từ khoảng tháng 9 năm 2019. Để có ma túy sử dụng cho bản thân, Hội đi đến nhà của Nguyễn Văn Nh mua ma túy của Nh với số tiền 150 nghìn đồng. Trên đường đi tìm địa điểm sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn Nh, phát hiện thu giữ: Tại gầm ghế trong phòng ngủ có chất tinh thể màu trắng vương vãi trên sàn nhà và 01 túi nilon màu đỏ mở 01 đầu, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Trong ngăn tủ tại phòng ngủ phát hiện một bộ dụng cụ sử dụng ma túy là 01 bình thủy tinh, 01 ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút bằng nhựa. Tại vị trí hiên nhà có 01 túi nilon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kẹp, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Trong túi áo khoác treo trong phòng có một túi nilon bọc băng dính đen, bên trong có 01 túi nilon màu trắng được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kẹp, bên trong có một viên hình trụ tròn, một túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng và túi nilon chứa dạng thực vật khô.

Tại Cơ quan điều tra, Nh khai: Nh sử dụng ma túy được khoảng 2 năm, để có ma túy sử dụng cho bản thân, Nh đi sang khu vực thành phố H mua ma túy của một số người không quen biết, sau đó về cất giấu sử dụng dần. Buổi trưa ngày 26/11/2019, Nguyễn Văn H đến hỏi mua ma túy thì Nh bán cho H một gói với số tiền 150 nghìn đồng, còn lại Nh cất giữ để sử dụng cho bản thân. Buổi chiều cùng ngày, Kh đến nhà Nh để cùng sử dụng ma túy. Khi Kh bóc một gói ma túy của Kh để định sử dụng nhưng thấy lực lượng Công an đến thì Kh vứt vào gầm ghế, còn Nh vứt một gói ma túy của Nh ra trước hiên cửa nhà.

Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra còn phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trọng Kh khi đang đứng trước cửa nhà của Nhắn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ một túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng để trong ví da, đặt trong túi quần đang mặc của Kh.

Kh khai số ma túy thu giữ trong ví của Kh và số ma túy rơi vãi trên sàn nhà dưới gầm là của Kh mua của một thanh niên tại khu R để sử dụng cho bản thân. Ngày 26/11/2019, Kh đến nhà Nh để mượn dụng cụ sử dụng ma túy. Khi Kh đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì lực lượng Công an đến khám xét nhà Nh, Kh vứt một gói ma túy xuống sàn nhà dưới gầm ghế nhà Nh, còn một gói để trong ví da của Kh thì bị Công an phát hiện, thu giữ.

Tại bản kết luận giám định số 914,915 ngày 30/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q lần lượt kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn H là ma túy; Loại Methamphetamine, khối lượng 0,326 gam (không phẩy ba hai sáu gam).

- Chất tinh thể màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi vật chứng thu giữ của Nguyễn Trọng Kh là ma túy; Loại Methamphetamine, khối lượng 0,253 gam (không phẩy hai năm ba gam).

Tại biên bản niêm phong ngày 26/11/2019; Biên bản mở niêm phong ngày 27/11/2019 và Kết luận giám định số 916 ngày 01/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qthể hiện:

- 01 (một) gói giấy chứa chất tinh thể màu trắng rơi vãi trên sàn nhà dưới gầm ghế đệm (ký hiệu M1) có khối lượng 0,266 gam; 01 túi nilon màu đỏ chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) có khối lượng 1,485 gam; 01 túi nilon bọc băng dính màu đen, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M3) có khối lượng 0,95 gam, đều là ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng 2,046 gam.

- Một túi nilon bên trong có 01 (một) viên nén hình trụ tròn màu xanh kích thước (7x5)mm, trên một mặt viên nén in chữ “i” (ký hiệu M4) là ma túy loại MDMA; khối lượng 0,309 gam;

- Một túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M5) là ma túy, loại Ketamine;

khối lượng 0,604 gam;

- Một túi nilon chứa thực vật khô (ký hiệu M6) là ma túy, Loại cần sa, khối lượng 0,164 gam.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSQY, ngày 02 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, tỉnh Q truy tố bị cáo Nguyễn Văn Nh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn Hvà Nguyễn Trọng Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn Nh, Nguyễn Văn Hvà Nguyễn Trọng Kh thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Nh từ 24 (hai bốn) đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là từ 39 (ba chín) đến 48 (bốn tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2019 ;

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn H từ 18 (mười tám) đến 24 (hai bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2019.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; của Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Trọng Kh từ 24 (hai bốn) đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2019.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Tại phần tranh luận, các bị cáo Nguyễn Văn Nh, Nguyễn Văn H và Nguyễn Trọng Kh không tranh luận gì với nội dung bản luận tội và thừa nhận việc truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Các bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

n cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của người chứng kiến, với vật chứng thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 26/11/2019, tại thôn Ch, xã T, thị xã Q, tỉnh Q, Nguyễn Văn Nh có hành vi bán trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,326 gam cho Nguyễn Văn H với số tiền 150 nghìn đồng và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,295 gam; loại MDMA, khối lượng 0,309 gam; loại Ketamine, khối lượng 0,604 gam; loại Cần sa, khối lượng 0,164 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, thu giữ vật chứng. Hồi 13 giờ 50 phút ngày 26/11/2019, tại khu 8, phường Q, thị xã Q, Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,326 gam để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hồi 15 giờ 30 phút ngày 26/11/2019 tại thôn Ch, xã T, thị xã Q, Nguyễn Trọng Kh có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, trong đó 01 gói thu giữ trong ví có khối lượng 0,253 gam; 02 gói thú giữ dưới sàn nhà gồm khối lượng 1,485 gam và 01 gói khối lượng 0,266 gam, tổng khối lượng 03 gói là 2,004 gam mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q truy tố bị cáo Nguyễn Văn Nh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Trọng Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Người chứng kiến anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa có lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 26/11/2019 anh đang đứng ở chợ R thuộc thôn Ch, xã T, thị xã Q thì nhìn thấy có đám đông đang tụ tập, anh tiến lại gần xem thì thấy cơ quan Công an thu giữ tại ngăn ví da màu đen trong túi quần phía sau bên phải người đàn ông đang mặc có 01 túi nilon màu trắng được hàn kín 3 đầu, đầu còn lại có khóa kẹp, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục. Khi cơ quan Công an hỏi, người đàn ông khai nhận tên là Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 1972, trú tại: Khu R, phường Q, thị xã Q; 01 túi nilon màu trắng được hàn kín ba đầu, một đầu còn lại có khóa kẹp mà cơ quan Công an thu giữ tại ngăn ví da màu đen trong túi quần phía sau bên phải là ma túy đá, Kh mua được của một người thanh niên (không rõ tên tuổi) qua số điện thoại 0986679118 với số tiền 200 nghìn đồng vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 26/11/2019 với mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ. Sau đó, cơ quan Công an tiến hành lập các biên bản và mời anh ký vào các phong bì thư niêm phong bằng chứng và các biên bản có liên quan do cơ quan Công an lập. Sau đó anh được mời về trụ sở cơ quan để làm việc(bút lục 123).

Người chứng kiến anh Nguyễn Văn Q vắng mặt tại phiên tòa có lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 26/11/2019, khi anh đang đứng đợi bạn ở khu vực thuộc thôn Ch, xã T, thị xã Q thì thấy có đám đông đang tụ tập, anh tiến lại gần xem thì thấy cơ quan Công an đang tiến hành kiểm tra một người đàn ông và phát hiện tại ngăn ví da mà đen, trong túi quần phía sau bên phải của người đàn ông đang mặc trên người có 01 túi nilon màu trắng được hàn kín ba đầu, đầu còn lại có khóa kẹp, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục. Anh thấy người đàn ông khai nhận với cơ quan Công an tên là Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 1972, trú tại khu R, phường Q, thị xã Q. Số chất tinh thể màu trắng có trong túi nilon bị thu giữ là ma túy đá của Kh do Kh mua được của một người nam thanh niên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) qua số điện thoại 0986679118 với số tiền là 200 nghìn đồng tại khu R, phường Q, thị xã Q vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 26/11/2019 với mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ. Sau đó cơ quan Công an tiền hành lập các biên bản và mời anh ký vào mép phong bì thư niêm phong vật chứng cùng các biên bản do cơ quan Công an lập và mời anh về trụ sở cơ quan Công an để làm việc (bút lục 126).

Người chứng kiến Lê Thị Th có mặt tại phiên tòa có lời khai phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra thể hiện: Ngày 26/11/2019, chị đang ở nhà anh Nguyễn Văn Nh tại thôn Ch, xã T, thị xã Q thì có lực lượng Công an đến thi hành lệnh khám xét Nguyễn Văn Nh. Quá trình chứng kiến việc khám xét, chị thấy lực lượng Công an phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác màu xanh treo trong phòng ngủ của chị và anh Nh có 03 túi nilon màu trắng. Trong đó, bên trong túi nilon thứ nhất có một viên nén hình tròn màu xanh, túi nilon thứ 2 bên trong có chất tinh thể màu trắng còn túi nilon thứ 3 bên trong có chứa một loại lá thực vật khô, cả ba túi nilon đều được quấn băng dính màu đen bên ngoài. Ngoài ra còn phát hiện và thu giữ ở phía dưới gầm ghế phòng khách có 01 túi nilon màu đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng vương vãi ra ngoài, thu giữ tại cánh tủ gần bàn uống nước trong phòng khách có 01 bộ dụng cụ thủy tinh để sử dụng ma túy đá, thu giữ trước cửa hiên nhà anh Nh có 01 túi nilon được quấn băng dính màu đen, bên trong túi có chứa chất bột màu trắng. Sau đó lực lượng Công an tiến hành niêm phong vật chứng và mời những người có mặt ở nhà anh Nh về cơ quan để làm việc. Chị hoàn toàn không biết số đồ vật, tài liệu mà cơ quan Công an thu giữ trong nhà anh Nh là gì và của ai. Chị chỉ biết bộ dụng cụ thủy tinh mà cơ quan Công an thu giữ là của anh Nh chế tạo với mục đích sử dụng ma túy đá. Chị có biết việc anh Nh sử dụng ma túy đá, tuy nhiên nguồn gốc ma túy đá mà anh Nh sử dụng do đâu mà có thì chị không biết vì anh Nh thường sử dụng ma túy đá giấu chị. Tại thời điểm kiểm tra nhà anh Nh ngoài chị và anh Nh còn có anh Đ tên thật là Nguyễn Trọng Kh cũng có mặt tại nhà anh Nh. Chị có biết anh Đ do anh Đ nhiều lần đến nhà anh Nh chơi. Ngày 26/11/2019, khi kiểm tra lực lượng Công an có phát hiện và thu giữ trong ví của anh Đ ở túi quần phía sau có 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục. Anh Đ khai nhận đó là ma túy đá mà anh Đ tàng trữ để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng. Ngày hôm đó chị không biết anh Đ xuống khi nào và xuống làm gì. Chị là bạn gái của anh Nh, giữa chị và anh Nh có quan hệ tình cảm với nhau, chị đến ở với anh Nh từ tháng 01/2016 đến nay. Giữa chị và anh Nh không có mâu thuẫn, thù hằn gì (bút lục 205).

Các bị cáo Nguyễn Văn Nh, Nguyễn Văn H và Nguyễn Trọng Kh đều là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì ham lợi nhuận, vì thỏa mãn cơn nghiện cho bản thân nên các bị cáo bất chấp pháp luật. Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội thể hiện sự coi thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến quy định của pháp luật về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, hành vi của các bị cáo cũng là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự xã hội, tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét về hành vi và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên, cần thiết cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn Nh và Nguyễn Trọng Kh không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn Nh phạm hai tội nên cần phải áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo Nh.

- Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn Nh và Nguyễn Văn H có nhân thân xấu cụ thể:

+ Năm 2005, bị cáo Nguyễn Văn Nh bị xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã được xóa án tích.

+ Năm 2005, bị cáo Nguyễn Văn H bị xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” và đến năm 2007, bị cáo Hội tiếp tục bị xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt hai bản án là 27 tháng tù, đã được xóa án tích.

[4] Về vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 914/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q bên trong có 0,26 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 915/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qbên trong có 0,19 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 916/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qbên trong có mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng như sau: M1: 0,21 gam; M2: 1,42 gam; M3: 0,23 gam; M4: 0,17 gam; M5: 0,54 gam đều là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu trắng có đế bằng thủy tinh; 01 ống thủy tinh màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Truy thu số tiền do Nguyễn Văn Nh phạm tội mà có là 150.000 đồng, sung ngân sách Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo đã được Cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa các bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí:

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Nh, Nguyễn Trọng Kh và Nguyễn Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án có một đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Văn Nh và một đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Trọng Kh. Quá trình điều tra không xác định được nên đề nghị làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Nh phạm tội Mua bán trái phép chất ma túyvà tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Các bị cáo Nguyễn Trọng Kh Nguyễn Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Nh 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung đối với hai tội danh nêu trên là 39 (ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/11/2019.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Kh 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/11/2019.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/11/2019.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 914/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qbên trong có 0,26 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) phong bì niêm phong số 915/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qbên trong có 0,19 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) phong bì niêm phong số 916/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Qbên trong có mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng như sau: M1: 0,21 gam; M2: 1,42 gam; M3: 0,23 gam; M4: 0,17 gam; M5: 0,54 gam; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu trắng có đế bằng thủy tinh; 01 ống thủy tinh màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa.

(Tình trạng các vật chứng trên thể hiện trong Biên bản giao nhận vật chứng lập vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 09/03/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q).

Truy thu 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) đối với Nguyễn Văn Nh, sung ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Nh, Nguyễn Trọng Kh và Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HSST ngày 04/05/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;