TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 72/2019/HSST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HS ngày 24/9/2019, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Bích X, sinh ngày 05/4/1984; Nơi ĐKHKTT: Tổ V, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên bố: Nguyễn Văn N (đã chết); Họ và tên mẹ: Đào Thị T, sinh năm 1964; Anh, chị em ruột có 03, bị cáo là thứ nhất; Chồng: Ma Công H, sinh năm 1980; Có 01 con, sinh năm 2004.
- Tiền án, tiền sự: Không;
- Nhân thân: Bản án số: 34/2019/HSST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
- Bị can bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2019 đến ngày 14/6/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú.
2. Họ và tên: Hà Duy V2, sinh ngày 13/02/1987; Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã H1, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Họ và tên bố: Hà Duy P, sinh năm 1958; Họ và tên mẹ: Lý Thị C, sinh năm 1959; Anh, chị em ruột có 05, bị cáo là thứ năm; Vợ, con: Chưa có.
- Tiền án, tiền sự: Không;
- Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 03/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.
3. Họ và tên: Ma Văn B, sinh 01/01/1974; Nơi ĐKHKTT: Thôn S, xã V2, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; Họ và tên bố: Ma Văn L, sinh năm 1945; Họ và tên mẹ: Nông Thị K, sinh năm 1947; Anh chị em ruột có 06, bị cáo là thứ tư; Vợ: Ma Thị H2, sinh năm 1973; Có 02 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1999.
- Tiền án, tiền sự: Không;
- Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 03/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chiêm Hóa. (Các bị cáo có mặt tại phiên tòa)
* Người làm chứng:
+ Đỗ Trọng G, trú tại thôn C1, xã N1, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt tại phiên tòa).
+ Ma Văn B, trú tại thôn S, xã V2 Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 30 ngày 03/6/2019 tại tổ 11/9, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Ma Văn B về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 02 gói nhỏ, 01 gói bên ngoài gói bằng nilon màu xanh tiếp theo là lớp giấy báo, 01 gói bên ngoài gói bằng nilon màu trắng bên trong là giấy báo, B khai 02 gói nhỏ là Heroine mua của Nguyễn Thị Bích X trú tại tổ V, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa.
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, tại thôn Đ, xã T1, huyện Chiêm Hóa, tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hà Duy V2 về hành vi bán trái phép chất ma túy, thu giữ 01 gói nhỏ có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon màu trắng bên trong là giấy có chữ, số nhiều màu, V2 khai đó là Heroine lấy của Nguyễn Thị Bích X trú tại tổ V, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, V2 mang về xã H1, huyện Chiêm Hóa để bán.
Hồi 16 giờ 08 phút cùng ngày Cơ quan điều tra Công an huyện Chiêm Hóa tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Bích X, X tự giác lấy ở dưới đệm trên giường ngủ trong buồng của mẹ chồng X là bà Hà Thị Ng ra giao nộp 01 gói bên ngoài gói bằng nilon màu trắng tiếp theo là lớp giấy báo có chữ màu đen, X khai là Heroine mục đích cất giấu để bán Tại biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy ngày 03/6/2019 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa đối với Ma Văn B, kết quả: (+) dương tính, đối với Hà Duy V2 và Nguyễn Thị Bích X, kết quả (-) âm tính.
Tại kết luận giám định số: 413, 414, 416/GĐKTHS ngày 06/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất Bt vón cục màu trắng ngà có trong 01 gói thu giữ của Hà Duy V2 là Heroine; Có khối lượng là 1,396g (một phảy ba chín sáu gam). Số chất Bt vón cục màu trắng ngà có trong 01 gói thu giữ của Nguyễn Thị Bích X là Heroine; Có khối lượng là 1,876g (một phảy tám sáu bảy gam). Số chất Bt vón cục màu trắng ngà có trong 02 gói thu giữ của Ma Văn B là Heroine; Có khối lượng là 0,212g (Không phảy hai một hai gam).
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng giữa tháng 5/2019, Nguyễn Thị Bích X một mình đi xe ô tô khách đi đến khu vực thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà G; X xuống xe đi B thì gặp một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ, X đến hỏi và mua được 01 gói Heroine có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon màu trắng, bên trong là lớp giấy báo có chữ với giá 3.000.000đ, mua được Heroine, X đi xe ô tô khách về nhà, khi về đến nhà X thấy mẹ chồng X là bà Hà Thị Ng đang ở trong bếp, X đi vào buồng ngủ của bà Ng cất giấu gói Heroine ở dưới đệm trên giường ngủ của bà Ng.
Khoảng 10 giờ ngày 31/5/2019, Hà Duy V2, là bạn của X đến quán may quần áo của X chơi. Quá trình nói chuyện X nói cho V2 biết X mới đi mua được 01 gói Heroine về bán kiếm lời X nói “gói Heroine đấy X mua với giá 3.000.000đ nếu chia nhỏ ra bán ít nhất cũng được 6.000.000đ nếu V2 giúp thì san lấy một phần về bán, khi nào bán hết thì trả tiền gốc cho X và lãi chia đôi” V2 đồng ý và thông nhất khi nào bán được hết thì tiền gốc trả lại cho X còn tiền lãi thì chia đôi, X bảo V2 đến buồng ngủ của mẹ chồng X lấy gói Heroine cắt lấy một phần về bán, V2 đến buồng ngủ của bà Ng lấy gói Heroine ra chia thành 02 phần, một phần V2 gói lại như cũ và cất giấu vào chỗ cũ, phần còn lại V2 san ra một ít chia thành 03 gói nhỏ đều có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng, V2 cất giấu vào túi quần đang mặc, phần còn lại, V2 gói trong mảnh giấy có chữ, số nhiều màu bên ngoài là lớp nilon màu trắng và cất giấu dưới khẩu trang trong hộp gỗ trên nóc tủ luy trong phòng ngủ của bà Ng, xong đi về cất giấu 03 gói Heroine vào trong túi áo treo trên móc áo trong buồng ngủ quán của V2. Trong thời gian từ ngày 01/6/2019 đến 03/6/2019, Hà Duy V2 và Nguyễn Thị Bích X đã có hành vi nhiều lần bán trái phép ma túy cho Đỗ Trọng G, trú tại thôn C1, xã N1, huyện Chiêm Hóa và Ma Văn B, trú tại thôn S, xã V2 Quang, huyện Chiêm Hóa, cụ thể.
Lần 1: Khoảng 10 giờ ngày 01/6/2019, Đỗ Trọng G đến quán của Hà Duy V2, trú tại tại thôn C, xã H1, huyện Chiêm Hóa, qua nói chuyện V2 biết G là người sử dụng ma túy sau đó V2 nói với G là có Heroine bán, G nói với V2 ra chỗ vòi nước rửa tay ở dưới bếp và nói với V2 “để cho anh hai trăm” và G đưa cho V2 200.000đ, V2 cầm tiền và lấy 01 gói Heroine có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng. G cầm lấy gói Heroine đi về đến chỗ vắng người sử dụng hết bằng cách tiêm chích vào cơ thể.
Lần 2: Khoảng 10 giờ ngày 02/6/2019, khi V2 đang ở quán thì G đến trước cửa quán hỏi V2“có hàng không để anh hai trăm”, V2 bảo G đi đến chỗ gần cây xăng dầu H1 cách quán của V2 khoảng 200m để trao đổi mua bán. Khoảng 05 phút sau V2 đến chỗ hẹn và đưa cho G 01 gói Heroine có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng. G cầm gói Heroine và đưa cho V2 200.000đ mua bán xong V2 đi về còn G đi vào chỗ vắng người lấy gói Heroine ra sử dụng hết bằng cách tiêm chích vào cơ thể.
Lần 3: Khoảng 19 giờ ngày 02/6/2019, V2 đi xe mô tô biển kiểm soát 22F1- 5383 đến khu vực Ủy ban nhân dân xã H1 chơi, khi đi V2 cầm theo 01 gói Heroine còn lại, mục đích nếu ai hỏi mua thì bán, khi đến khu vực cách Ủy ban nhân dân xã H1, huyện Chiêm Hóa khoảng 100m thì gặp G, G hỏi “mày còn thuốc không để cho anh bốn trăm”, V2 trả lời là “Có” và đưa luôn cho G 01 gói Heroine nêu trên, G cầm và đưa cho V2 400.000đ mua bán xong V2 đi chơi còn G đi đến chỗ vắng người lấy gói Heroine ra sử dụng hết bằng cách tiêm chích vào cơ thể.
Lần 4: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, khi X đang ở nhà mẹ đẻ của X trú tại thôn T2, xã V2, huyện Chiêm Hóa thì nhận được điện thoại của Ma Văn B với nội dung “em tìm cách giúp anh với, anh mua một con hai trăm, một con bốn trăm”, X đồng ý và bảo B đến nhà X chờ, sau đó X gọi điện thoại cho V2 hỏi V2 đang ở đâu thì V2 nói đang ở thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, X bảo V2 đến nhà mẹ chồng X lấy gói Heroine X cất giấu dưới đệm trong buồng ngủ của mẹ chồng X ra san ra một ít bán cho B 600.000đ, V2 đồng ý. Khoảng 30 phút sau V2 đến nhà X thì thấy B ngồi chờ ở nhà X, V2 một mình đi vào trong buồng ngủ của mẹ chồng X lấy gói Heroine mà V2 cất giấu ngày 31/5/2019 dưới khẩu trang trong hộp gỗ trên tủ luy ra san lấy một ít chia thành 02 gói nhỏ trong đó 01 gói bên ngoài gói bằng nilon màu trắng; 01 gói bên ngoài gói bằng nilon màu xanh số còn lại V2 gói lại như cũ và cất giấu vào túi quần đang mặc sau đó V2 cầm 02 gói Heroine ra đưa cho B, B đưa cho V2 600.000đ mua bán xong B đi về, còn V2 điện thoại cho X nói mang số Heroine còn lại về nhà bán cho người nghiện kiếm lời. X đồng ý, V2 đi về nhà khi đến thôn Đ xã T1, huyện Chiêm Hóa thì bị tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Còn Ma Văn B sau khi mua được Heroine đi về nhà, khi đến tổ 11/9, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa thì bị Công an huyện Chiêm Hóa phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Bích X đã phát hiện và thu giữ 01 gói Heroine còn lại.
Trước cơ quan điều tra các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2, Ma Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.
Từ nội dung trên, tại Cáo trạng số 71/CT-VKSCH ngày 06/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố Ma Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2, Ma Văn B tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung đã khai tại giai đoạn điều tra, không phát sinh tình tiết mới. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX:
- Về tội danh: Đề nghị xử các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; Ma Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Về hình phạt:
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 38; Điều 17; Điểm s, n khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích X từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù.
Tổng hợp với hình phạt 02 năm 02 tháng 23 ngày tù tại Bản án số: 34/2019/HSST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, buộc phải thi hành hình phạt chung theo quy định, hạn tù tính từ ngày chấp hành hình phạt tù, được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2019 đến ngày 14/6/2019.
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 17, khoản 1 Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hà Duy V2 từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/6/2019.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy Nguyễn Thị Bích X là người phạm tội đang có thai, Hà Duy V2 là dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, cả hai bị cáo đều không có tài sản đáng kể, nên không áp dụng hình phạt tiền làm hình phạt bổ sung vơi cả hai bị cáo.
+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ma Văn B từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/6/2019.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo phạm vào tội không có mục đích vụ lợi, bản thân không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
- Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy của Hà Duy V2 01 điện thọai di động nhãn hiệu NOKIA 105, của Ma Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105; trả lại cho Nguyễn Thị Bích X 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s nhưng tạm giữ để thi hành án.
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Hà Duy V2, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Hà Duy V2, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị Bích X, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Nguyễn Thị Bích X, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Ma Văn B, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Ma Văn B, Giám định ngày 04/6/2019";
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa lập ngày 06/9/2019).
+ Tịch thu số tiền 600.000 đồng thu giữ của Hà Duy V2 do phạm tội mà có nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Số tiền này hiện đang tạm gửi tại tài khoản số 3591.0.1065091.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa tại Kho bạc Nhà nước huyện Chiêm Hóa".
+ Truy thu số tiền 800.000 đồng của Hà Duy V2 do phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 22F1-5383 thu giữ của Hà Duy P, nhưng khi Hà Duy V2 mượn xe ông P không biết V2 sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội. Ngày 04/7/2019 CQCSĐT đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Hà Duy P chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ nên không đề nghị xem xét.
- Đối với số Heroine Nguyễn Thị Bích X cất giữ trong giường ngủ của bà Hà Thị Ng nhưng bà Ng không biết nên không đề nghị xử lý.
- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Ma Văn B, Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền nên không đề nghị xử lý.
- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đỗ Trọng G, UBND xã N1 đã ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã nên không đề nghị xử lý.
- Đối với người phụ nữ bán Heroine cho Nguyễn Thị Bích X quá trình điều tra, không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không đề nghị xử lý.
Ngoài ra đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa xét thấy:
1. Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên và Cơ quan điều tra Công an huyện; Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện, trong quá trình bắt quả tang, khởi tố, điều tra, truy tố, thủ tục Tạm giữ, tạm giam đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
2. Về áp dụng pháp luật: Tại Cáo trạng số 71/CT-VKSCH ngày 06/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; Ma Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy Ma, Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp nội dung kết luận điều tra và bản Cáo trạng đã nêu; phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:
Trong các ngày 01/6/2019, 02/6/2019 và 03/6/2019, Nguyễn Thị Bích X và Hà Duy V2 đã có hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho Đỗ Trọng G trú tại thôn C1, xã N1, huyện Chiêm Hóa và Ma Văn B, trú tại thôn Soi Đũng, xã V2 Quang, huyện Chiêm Hóa, cụ thể như sau:
Lần 1 : Khoảng 10 giờ ngày 01/6/2019, tại thôn C, xã H1, huyện Chiêm Hóa, Hà Duy V2 trực tiếp có hành vi bán trái phép cho Đỗ Trọng G 01 gói Heroine với giá 200.000đ.
Lần 2 : Khoảng 10 giờ ngày 02/6/2019, tại thôn C, xã H1, huyện Chiêm Hóa, Hà Duy V2 trực tiếp có hành vi bán trái phép cho Đỗ Trọng G 01 gói Heroine với giá 200.000đ
Lần 3 : Khoảng 19 giờ ngày 02/6/2019, tại thôn C, xã H1, huyện Chiêm Hóa, Hà Duy V2 trực tiếp có hành vi bán trái phép cho Đỗ Trọng G 01 gói Heroine với giá 400.000đ
Lần 4 : Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, tại tổ V, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, Hà Duy V2 trực tiếp có hành vi bán trái phép cho Ma Văn B, trú tại thôn S, xã V2 Quang, huyện Chiêm Hóa 02 gói Heroine với giá 600.000đ.
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, tại thôn Đ, xã T1, huyện Chiêm Hóa, Hà Duy V2 đã có hành vi tàng trữ 1,396g (một phảy ba chín sáu gam) Heroine nhằm mục đích để bán.
Hồi 16 giờ 08 phút ngày 03/6/2019, tại tổ V, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, Nguyễn Thị Bích X đã có hành vi tàng trữ 1,876g (một phảy tám bảy sáu gam) Heroine nhằm mục đích để bán. Tổng khối lượng Heroine X tàng trữ nhằm mục đích bán là 3,272g (ba phảy hai bảy hai gam).
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, tại tổ 11/9, thị trấn V1, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, Ma Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,212g (không phảy hai một hai gam), nhằm mục đích để sử dụng.
Kết quả điều tra xác định, sau khi một mình Nguyễn Thị Bích X mua 01 gói ma túy giá 3.000.000 đồng, đến ngày 31/5/2019, Hà Duy V2 đến nhà X đã cùng thống nhất như X đề xuất: “gói Heroine đấy X mua với giá 3.000.000đ nếu chia nhỏ ra bán ít nhất cũng được 6.000.000đ nếu V2 giúp thì san lấy một phần về bán, khi nào bán hết thì trả tiền gốc cho X và lãi chia đôi” V2 đồng ý và thống nhất khi nào bán được hết thì tiền gốc trả lại cho X còn tiền lãi thì chia đôi, nên cả 4 lần Hà Duy V2 là người trực tiếp bán, nhưng đều trong phạm vi, cùng nội dung và số ma túy đã thống nhất với Nguyễn Thị Bích X, đủ căn cứ quy kết Hà Duy V2 và Nguyễn Thị Bích X là đồng phạm trong cả 4 lần đã bán.
Đối với tổng khối lượng Heroine Nguyễn Thị Bích X và Hà Duy V2 đang tàng trữ là 3,272g (ba phảy hai bảy hai gam) các bị cáo khai nhằm mục đích bán và các bị cáo đều là người không nghiện và không tự xác định và xác định được khối lượng riêng để sử dụng, do Điều 249 BLHS2015 quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán...", và Điều 13 BLTTHS về Suy đoán vô tội có quy định:".... Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội". nên các bị cáo không bị quy kết phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; hành vi đang cất giữ để bán là chuẩn bị phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", nhưng Điều 14 BLHS 2015 không quy định chuẩn bị phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" phải chịu trách nhiệm hình sự như quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự 1999. Căn cứ Điều 98 BLTTHS quy định: "Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội", nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa không căn cứ lời khai "nhằm mục đích để bán" của các bị cáo là chứng cứ duy nhất để truy tố các bị cáo thêm lần phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" đối với số ma túy đang tàng trữ để bán, chỉ coi số 04 lần đã bán cũng đủ xác định Nguyễn Thị Bích X và Hà Duy V2 là thống nhất cùng chia thành các gói nhỏ để cả 2 người cùng bán và Nguyễn Thị Bích X đã mặc nhiên để Hà Duy V2 tự lấy ma túy bán 04 lần, là đã đủ căn cứ quy kết các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, số ma túy chưa bán tuy không kết tội nhưng đã chuẩn bị phạm tội tiếp theo thể hiện mức độ phạm tội cao, nên Viện kiểm sát truy tố cả 02 bị cáo về một tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
3. Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích X mua 01 gói ma túy giá 3.000.000 đồng, thỏa thuận với nhau để Hà Duy V2 lấy đem đi bán 04 lần 04 gói ma túy cho mỗi người một lần bán; số còn lại X tàng trữ là 3,272g (ba phảy hai bảy hai gam), Hà Duy V2 đã có hành vi tàng trữ 1,396g (một phảy ba chín sáu gam) Heroine tự khai "nhằm mục đích để bán" nhưng chưa đủ căn cứ xác định để quy kết là phạm tội chưa đạt, nhưng thể hiện mức độ phạm tội cao, nên các bị cáo Nguyễn Thị Bích X và Hà Duy V2 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố cả hai bị cáo cùng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp phạm tội từ 02 lần trở lên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS; Ma Văn B mua và đang tàng trữ để sử dụng ma túy khối lượng là 0,212g (Không phảy hai một hai gam)là Heroine nên Viện kiểm sát truy tố Ma Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng khung hình phạt, không có tình tiết định khung hình phạt khác.
4. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò vị trí đồng phạm và áp dụng hình phạt đối với bị cáo:
Tại giai đoạn điều tra cho đến khi bị xét xử tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 và Ma Văn B khai báo thành khẩn, nhận tội, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng Nguyễn Thị Bích X đang có thai nên được áp dụng thêm điểm n khoản 1, Hà Duy V2 và Ma Văn B là dân tộc thiểu số sống ở vùng KTXH đặc biệt khó khăn, nên được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS.
Về vai trò, vị trí của bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2: Bị cáo Nguyễn Thị Bích X là người dùng 3.000.000 đồng mua 01 gói ma túy, chủ động đề xuất, thỏa thuận với nhau để Hà Duy V2 lấy chia thành gói nhỏ đem đi bán để cùng hưởng lợi, đã bán 4 lần (03 lần bán cho Đỗ Trọng G và 01 lần bán cho Ma Văn B) số còn lại X tàng trữ là 3,272g (ba phảy hai bảy hai gam) tự khai "nhằm mục đích để bán" là số lượng đáng kể, đủ dấu hiệu xác định là người giữ vai trò chính trong vụ án, tuy có hơn các bị cáo khác một tình tiết giảm nhẹ nhưng bị xác định là người phạm tội 2 vụ án kế tiếp nhau nên cần xử bị cáo mức án cao hơn mức khỏi điểm khung hình phạt mới thỏa đáng. Hà Duy V2 tuy tham gia sau khi X đã mua ma túy về, số ma túy còn đang tàng trữ để bán nhưng cả 4 lần bán ma túy đều là người trực tiếp giao dịch với người mua nên Hà Duy V2 là người thực hành tích cực, quyết định việc hoàn thành mục đích phạm tội, nên bị cáo V2 giữ vai trò thực hành nhưng mức độ tính chất quan trọng, cần áp dụng mức án gần bằng bị cáo X khi áp dụng quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự để lượng hình mới thỏa đáng. Xét thấy các bị cáo phạm tội đến 04 lần là nhiều lần gấp đôi so với mức khởi điểm, số còn lại để bán có khối lượng 3,272g (ba phảy hai bảy hai gam) đáng kể so với mỗi lần phạm tội, nên cần áp dụng mức án cao hơn mức tương ứng với định lượng trong khung hình phạt mới phù hợp với tính chất mức độ phạm tội.
Xét thấy Nguyễn Thị Bích X là người phạm tội đang có thai, Hà Duy V2 là dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, cả hai bị cáo đề không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt tiền làm hình phạt bổ sung vơi cả hai bị cáo.
Bị cáo Ma Văn B là người nghiện, đã mua để sử dụng ma túy khối lượng là 0,212g (Không phảy hai một hai gam) là Heroine là cao hơn mức khởi điểm định khung hình phạt, có bố đẻ có thành tích được Nhà nước khen thưởng, nên cần áp dụng mức án khởi điểm khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và không áp dụng hình phạt tiền làm hình phạt bổ sung là tương xứng với mức độ phạm tội và đủ điều kiện giáo dục bị cáo.
5. Vật chứng liên quan đến vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của các bị cáo xét thấy:
+ Thu của Hà Duy V2 01 điện thọai di động nhãn hiệu NOKIA 105, của Ma Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, nhưng đã cũ, các bị cáo đề nghị hủy nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s có dùng vào việc phạm tội nhưng là phương tiện sinh hoạt nên trả lại cho Nguyễn Thị Bích X nhưng tạm giữ để thi hành án.
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Hà Duy V2, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Hà Duy V2, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị Bích X, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Nguyễn Thị Bích X, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Ma Văn B, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Ma Văn B, Giám định ngày 04/6/2019";
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa lập ngày 06/9/2019).
+ Tịch thu số tiền 600.000 đồng thu giữ của Hà Duy V2 do phạm tội mà có nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Số tiền này hiện đang tạm gửi tại tài khoản số 3591.0.1065091.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa tại Kho bạc Nhà nước huyện Chiêm Hóa".
+ Truy thu số tiền 800.000 đồng của Hà Duy V2 do phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước.
6. Vấn đề khác:
- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 22F1-5383 thu giữ của Hà Duy P, nhưng khi Hà Duy V2 mượn xe ông P không biết V2 sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội. Ngày 04/7/2019 CQCSĐT đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Hà Duy P chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ nên không xem xét lại.
- Đối với số Heroine Nguyễn Thị Bích X cất giữ trong giường ngủ của bà Hà Thị Ng nhưng bà Ng không biết nên không có căn cứ xử lý.
- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Ma Văn B, Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định số 36/QĐ-XPVPHC ngày 13/8/2019 xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền nên không xem xét xử lý.
- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đỗ Trọng G, UBND xã N1 đã ra Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 16/6/2019 về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã nên không xem xét xử lý.
- Đối với người phụ nữ bán Hêrôin cho Nguyễn Thị Bích X quá trình điều tra, không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý; vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét và xử lý.
Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:
1.1. Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 38; Điều 17; điểm s, n khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58 Bộ luật hình sự:
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Bích X phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích X 08 (tám) năm 03 (ba) tháng tù.
Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 02 (hai) tháng 23 (hai ba) ngày tù (sau khi đã trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/4/2019 đến ngày 09/4/2019) tại Bản án số: 34/2019/HSST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, buộc phải thi hành hình phạt chung là 10 (mười) năm 05 (năm) tháng 23 (hai ba) ngày tù, trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2019 đến ngày 14/6/2019 là 12 ngày tù; Bị cáo còn phải chấp hành 10 (Mười) năm 05 (năm) tháng 11 (mười một) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành hình phạt tù
1.2. Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự:
+ Tuyên bố bị cáo Hà Duy V2 phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
+ Xử phạt: Bị cáo Hà Duy V2 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (03/6/2019).
1.3. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
+ Tuyên bố bị cáo Ma Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
+ Xử phạt: Bị cáo Ma Văn B 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (03/6/2019).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy của Hà Duy V2 01 điện thọai di động nhãn hiệu NOKIA 105 (đã cũ) và của Ma Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 (đã cũ), các bị cáo đề nghị tiêu hủy;
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s bị cáo dùng vào việc phạm tội nhưng là phương tiện sinh hoạt nên trả lại cho Nguyễn Thị Bích X nhưng tạm giữ để thi hành án.
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Hà Duy V2, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Hà Duy V2, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị Bích X, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Nguyễn Thị Bích X, Giám định ngày 04/6/2019";
+ Tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ niêm phong trong 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký xác nhận của Ma Văn B, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi "Tang vật vụ: Ma Văn B, Giám định ngày 04/6/2019";
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa lập ngày 06/9/2019).
+ Tịch thu số tiền 600.000 đồng thu giữ của Hà Duy V2 do phạm tội mà có nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Số tiền này hiện đang tạm gửi tại tài khoản số 3591.0.1065091.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa tại Kho bạc Nhà nước huyện Chiêm Hóa".
+ Truy thu số tiền 800.000 đồng của Hà Duy V2 do phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH khóa 14: Các bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 và bị cáo Ma Văn B, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Căn cứ điểm m khoản 2 Điều 61; Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị Bích X, Hà Duy V2 và bị cáo Ma Văn B, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/10/2019).
Bản án 72/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về