Bản án 10/2020/HN-ST ngày 11/03/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 10/2020/HN-ST NGÀY 11/03/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN

Ngày 11 tháng 3 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 09/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2020 về: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXX-ST ngày 19 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Bé Ng, sinh năm 1997; Địa chỉ cư trú: ấp A, xã A1, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Trương Minh N, sinh năm 1996; Địa chỉ cư trú: ấp A2, xã A1, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.

Chị Ng và anh N có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/01/2020, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, chị Võ Thị Bé Ng trình bày.

1. Về hôn nhân: Chị xin ly hôn với anh Trương Minh N. Lý do: Chị và anh Trương Minh N do tìm hiểu tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A1 cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 27/12/2017. Sau khi cưới, vợ chồng sống bên gia đình anh N. Trong quá trình sống chung, thời gian đầu có hạnh phúc nhưng sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh N không lo làm kinh tế, tụ tập bạn bè uống rượu, cờ bạc dẫn đến vợ chồng không được hạnh phúc. Khoảng tháng 7/2019, chị về bên gia đình mẹ ruột sống cho đến nay. Trong thời gian này, anh N cũng có đến thăm mẹ con chị, muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, chị cũng đã cho cơ hội nhưng anh không thay đổi nên mâu thuẫn không còn cách cứu vãn. Nay chị thấy tình cảm không còn nên xin ly hôn với anh N.

2. Về con chung: Trương Võ Ngọc T, sinh ngày 25/01/2019, hiện nay đang sống chung với chị, khi ly hôn chị xin trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung của vợ chồng: Không có.

- B đơn anh Trương Minh N có lời trình bày trong quá trình t tụng và tại phiên tòa:

1. Về hôn nhân: Anh không đồng ý ly hôn với chị Ng. Lý do: Giữa vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chủ yếu do chị Ng muốn anh về sống bên gia đình chị Ng sống, anh không đồng ý nên chị Ng ly hôn. Đối với việc chị Ng trình bày anh có uống rượu và chơi cờ bạc là có nhưng không nhiều, vợ chồng có gây cãi nhỏ và đã hàn gắn xong. Hiện nay anh không còn chơi cờ bạc và uống rượu nữa. Anh có về sống bên gia đình chị Ng được khoảng 01 tháng, sau đó vợ chồng cãi nhau do chị Ng đi làm theo đoàn nhạc sống, bỏ con mới 11 tháng tuổi, anh có khuyên can nhưng chị Ng không nghe, vợ chồng không còn sống chung cho đến nay. Hai bên cha mẹ có hàn gắn nhiều lần nhưng không thành.

2. Về con chung: Trương Võ Ngọc T, sinh ngày 25/01/2019. Nếu yêu cầu ly hôn của chị Ng được Tòa chấp nhận, anh đồng ý để chị Ng trực tiếp nuôi con, anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung của vợ chồng: Không có.

Tại phiên tòa, Kim sát viên đại diện Viện kim sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam phát biu cho rằng:

Về thủ tục t tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký cũng như đương sự nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình được Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Đương sự chấp hành tốt sự triệu tập.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Bé Ng; Con chung: Trương Võ Ngọc T, sinh ngày 25/01/2019, để chị Ng trực tiếp nuôi, chị Ng không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét; Tài sản chung: Không yêu cầu; Nợ chung: Không có, đề nghị không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, nghe ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật t tụng:

Căn cứ vào đơn xin ly hôn của chị Võ Thị Bé Ng, Hội đồng xét xử xác định vụ án có quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn”; Trong đó xác định chị Võ Thị Bé Ng là nguyên đơn, anh Trương Minh N là bị đơn; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung giải quyết vụ án:

1. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Bé Ng, thấy rằng:

Chị Ng cho rằng do quá trình sống chung xảy ra nhiều mâu thuẫn, anh N không lo làm kinh tế, tụ tập bạn bè đánh bài, uống rượu. Vợ chồng nhiều lần xảy ra cự cãi, có thời gian không sống chung, cũng nhiều lần hàn gắn nhưng anh N không sửa đổi khuyết điểm. Nay quyết định ly hôn.

Anh N không đồng ý ly hôn, cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không lớn, những khuyết điểm của anh anh đã sửa đổi nhưng chị Ng vẫn kiên quyết ly hôn.

Khi thực hiện xác minh, ông Võ Văn T là cha của chị Ng cho biết: Hiện tại chị Ng sống chung với gia đình ông, về sống chung cách nay khoản 05 tháng. Anh N uống rượu về gây cãi với chị Ng nên vợ chồng có mâu thuẫn nhiều lần tại nhà ông. Ông đã khuyên can nhiều lần nhưng không thành. Ông và ba của anh N cũng đã bàn bạc, hàn gắn cho 02 con, anh N cũng hứa khắc phục, tuy nhiên không làm được. Chị Ng kiên quyết ly hôn vì đã bất mãn, chán nản trong mối quan hệ vợ chồng.

Khi thực hiện xác minh tại chính quyền địa phương ấp A2 nơi anh N đăng ký thường trú cho biết thông tin: Hôn nhân giữa chị Ng và anh N có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Theo thông tin nắm được, anh N có đi nhậu thường xuyên với bạn bè, có 01 lần cha của anh N có gọi điện thoại báo anh N đi nhậu về quậy tại gia đình. Chị Ng sống bên chồng nhưng cách nay khoảng 02 tháng, chị Ng cùng con về bên mẹ ruột sinh sống. Anh N đang sống chung với cha mẹ, làm thuê tại địa phương nhưng nghề nghiệp không ổn định. Qua họp tổ tại địa phương không có đơn yêu cầu hòa giải mâu thuẫn vợ chồng nên không nắm rõ nguyên nhân ly hôn.

Thấy rằng mục đích hôn nhân là để xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; trong quá trình sống chung vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Ng và anh N là có thật, lúc đầu không lớn. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc anh N uống rượu, không có việc làm ổn định, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Vợ chồng đã có một thời gian dài không còn sống chung, trong thời gian này vợ chồng cũng không có hướng hòa giải đoàn tụ nên mâu thuẫn ngày càng nhiều đến nay đã đến mức trầm trọng. Anh N cho rằng không muốn ly hôn nhưng bản thân anh cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra, anh chị cũng như gia đình 02 bên đã cố gắng hàn gắn nhưng vẫn không đoàn tụ được, chị Ng vẫn kiên quyết xin ly hôn. Tòa án cũng đã tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Xét khả năng hàn gắn đoàn tụ là không thể, mục đích hôn nhân đã không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ng theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

2. Về con chung: Trương Võ Ngọc T, sinh ngày 25/01/2019. Xét thấy con đã sống chung với mẹ từ nhỏ cho đến nay, đã quen với cuộc sống bên mẹ nên để chị Ng trực tiếp nuôi con là phù hợp. Đối với việc anh N tự nguyện cấp dưỡng 2.000.000 đồng, khi được hỏi ý kiến cũng như được giải thích nhiều lần nhưng chị Ng vẫn kiên quyết không cần cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này. Sau khi ly hôn, cha, mẹ đều có quyền, nghĩa vụ đối với con chung chưa thành niên theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Cả hai không yêu cầu, không giải quyết.

4. Về nợ chung của vợ chồng: Cả hai trình bày không có, không xem xét.

[3]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp nhận định trên nên chấp nhận. Án phí dân sự không có giá ngạch, chị Ng chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 68, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVWQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Bé Ng.

Cụ thể tuyên:

1. Chị Võ Thị Bé Ng được ly hôn với anh Trương Minh N.

2. Về con chung: Trương Võ Ngọc T, sinh ngày 25/01/2019, khi ly hôn chị Võ Thị Bé Ng được trực tiếp nuôi con. Chị Võ Thị Bé Ng không yêu cầu anh Trương Minh N cấp dưỡng nuôi con, không xem xét. Sau khi ly hôn cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chua thành niên; người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có căn cứ theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Cả hai không yêu cầu, không giải quyết.

4. Về nợ chung của vợ chồng: Cả hai trình bày không có, không xem xét.

Các đương sự không có yêu cầu nào khác, không xem xét.

5. Về án phí dân sự không có giá ngạch: Đối với yêu cầu ly hôn: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn), chị Võ Thị Bé Ng phải chịu. Được khấu trừ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008199 ngày 13 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9, thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HN-ST ngày 11/03/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn

Số hiệu:10/2020/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;