Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 01/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án thụ lý số: 1321/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kiều T, sinh năm 1984; thường trú tại: Ấp A, xã G, huyện G, tỉnh Tiền Giang; nơi tạm trú: A, khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Kiến Q, sinh năm 1982; thường trú tại: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đ; nơi tạm trú: A, khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 10 năm 2018 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn – bà Võ Thị Kiều T trình bày:

Bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kiến Q chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đ và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 05/2012, ngày 10/02/2012.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Ngọc Sao M, sinh ngày 06/10/2012.

Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, do ông Q không phụ giúp bà T chăm sóc gia đình, con cái, mọi việc trong nhà đều đùn đẩy bà T quán xuyến và thường xuyên chửi bới, đánh đập bà T. Bà T nhiều lần tha thứ, tạo cơ hội cho ông Q sửa chữa. Gia đình hai bên nhiều lần tác động, hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Vào tháng 4/2018, bà T có nộp đơn đến Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với mục đích để cho ông Q suy ngẫm để sửa chữa bản thân sau đó bà T sẽ rút đơn khởi kiện để vợ chồng đoàn tụ. Ngày 10/4/2018, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An đã ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình số 90/2018/QĐST-HNGĐ. Thế nhưng kể từ thời điểm rút đơn khởi kiện đến nay bà T và ông Q vẫn xảy ra mâu thuẫn, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn nên bà T khởi kiện yêu cầu như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Kiến Q.

Về con chung: Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Ngọc Sao M, sinh ngày 06/10/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Bà T không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình tố tụng ông Nguyễn Kiến Q đều vắng mặt.

Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần hai đối với việc xét xử.

Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với việc xét xử nhưng vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên tòa xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của nguyên đơn Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Võ Thị Kiều T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Kiến Q và yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn – ông Nguyễn Kiến Q có nơi cư trú tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương vì vậy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương là Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn- bà Võ Thị Kiều T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn – ông Nguyễn Kiến Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự

[4] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kiến Q được xác lập trên cơ sở tự nguyện vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, huyện T, tỉnh Đ và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 05/2012, ngày 10/02/2012 nên là hôn nhân hợp pháp.

Bà Võ Thị Kiều T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Kiến Q với lý do: ông Q không phụ giúp bà T chăm sóc gia đình, con cái, mọi việc trong nhà đều đùn đẩy bà T quán xuyến và thường xuyên chửi bới, đánh đập bà T. Bà T nhiều lần tha thứ, tạo cơ hội cho ông Q sửa chữa. Gia đình hai bên nhiều lần tác động, hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Vào tháng 4/2018, bà T có nộp đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với mục đích để cho ông Q suy ngẫm để sửa chữa bản thân, sau đó bà T sẽ rút đơn để vợ chồng đoàn tụ. Ngày 10/4/2018, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An đã ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình của bà T. Thế nhưng kể từ thời điểm rút đơn khởi kiện đến nay bà T và ông Q vẫn xảy ra mâu thuẫn, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai.

Quá trình tố tụng Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà T và ông Q tại nơi cư trú của vợ chồng nhưng không ai có thông tin gì về việc vợ chồng bà T và ông Q mâu thuẫn. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Vợ chồng bà T và ông Q vì bất đồng quan điểm sống nên tình cảm vợ chồng phai nhạt. Vợ chồng đã sống riêng hơn một năm nay, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống nên xác định tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà T và ông Q không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà T và ông Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc ly hôn với ông Q.

Về con chung: Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc Sao M, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Từ khi vợ chồng sống riêng, ông Q thường xuyên vắng nhà, một mình bà T chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M. Bà T chăm sóc con tốt nên cháu M phát triển bình thường, khỏe mạnh và học hành đầy đủ. Bà T là công nhân Công ty may mặc Y.J VINA, mức lương thực lãnh hàng tháng là 7.481.000 đồng nên xác định là nghề nghiệp ổn định, có thu nhập do vậy việc giao con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng cháu M là phù hợp pháp luật.

Bà T tự nguyện không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp [6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kiều T đối với ông Nguyễn Kiến Q về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Kiều T được ly hôn với ông Nguyễn Kiến Q.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Sao M, sinh ngày 06/10/2012, cho bà Võ Thị Kiều T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0024430 ngày 08/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 01/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;