Bản án 10/2018/HS-PT ngày 07/02/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 10/2018/HS-PT NGÀY 07/02/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 03/2018/HSPT ngày 04 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Hoàng Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 74/2017/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.

- Bị cáo có kháng cáo:

Hoàng Văn T, sinh ngày 13 tháng 6 năm 1990 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã M, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Thôn T3, xã H2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H3, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị L3, sinh năm 1967; có vợ là Lý Thị Ngọc D, sinh năm 1992 và có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh tháng 12/2017; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo tại ngoại, có mặt

Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:

- Người bị hại: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn N, xã H2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 31/8/2017, Hoàng Văn T đến nhà anh Hoàng Văn H để mượn xe ô tô, biển kiểm soát 33H-9700 đi ăn cưới con cô ruột là Hoàng Thị P, tại thôn C, xã M, huyện V, tỉnh Lạng Sơn và hẹn hôm sau (tức ngày 01/9/2017) sẽ trả xe, anh Hoàng Văn H đồng ý cho mượn. Khi mượn xe giữa Hoàng Văn T và anh Hoàng Văn H không có giấy tờ cho thuê mượn, không có thỏa thuận gì về tiền thuê xe. Đến chiều tối ngày 01/9/2017 không thấy Hoàng Văn T mang xe về trả, anh Hoàng Văn H gọi điện, thì Hoàng Văn T nói là đang mang xe về. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày anh Hoàng Văn H tiếp tục gọi điện cho Hoàng Văn T, nhưng không liên lạc được. Khoảng 18 giờ ngày 02/9/2017 Hoàng Văn T mang xe ô tô của anh Hoàng Văn H đi bán tại hiệu cầm đồ có biển là "P" do anh Nguyễn Mạnh L1, sinh năm 1984, trú tại ** phố M2, phường T4, thành phố L làm chủ lấy 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng). Sau khi bán được xe Hoàng Văn T mang số tiền trên trả nợ hết. Đến ngày 04/9/2017 anh Hoàng Văn H đến nơi ở của Hoàng Văn T và được Hoàng Văn T cho biết là đã mang xe của anh Hoàng Văn H đi cầm cố. Vào ngày 04/9/2017 thì Hoàng Văn T viết giấy mượn xe, trong giấy hẹn ngày trả xe vào ngày 06/9/2017, nhưng Hoàng Văn T không trả theo hẹn. Đến ngày 10/9/2017 Hoàng Văn T gặp người tên là Đ (không rõ địa chỉ cụ thể) tại quán Bi-a, ở gần khách sạn M3, thành phố L. Hoàng Văn T hỏi Đ mượn 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) để lấy lại xe ô tô. Do chơi với nhau nên Đ đồng ý, nhưng với điều kiện có gì đó làm tin. Hoàng Văn T nói lấy được xe về sẽ giao cho Đ giữ để làm tin. Đ hỏi vay tiền chị Lô Thị Hải Y, sinh năm 199* trú tại Số **, ngõ *, khối **, đường A, phường V1, thành phố L để cho Hoàng Văn T vay. Chị Lô Thị Hải Y đồng ý. Hoàng Văn T nhận 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) với chị Lô Thị Hải Y. Hoàng Văn T đưa cho Nguyễn Mạnh L1 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng), Nguyễn Mạnh L1 giao xe và giấy tờ xe cho Hoàng Văn T. Hoàng Văn T nhận xe vào giao cho Đ quản lý.

Ngày 11/9/2017 anh Hoàng Văn H viết đơn trình báo Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Đến ngày 13/9/2017 Hoàng Văn T đã mang xe ô tô và các giấy tờ xe giao nộp cho Công an huyện V; cùng ngày 13/9/2017 anh Hoàng Văn H có đơn đề nghị không xử lý về hình sự đối với Hoàng Văn T; ngày 28/9/2017 Công an huyện V đã trao trả lại xe cho Hoàng Văn H.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 25/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản xác định giá trị còn lại của xe ô tô biển kiểm soát 33H-970* là 46.229.000đ (bốn mươi sáu triệu hai trăm hai mươi chín triệu đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 74/2017/HSST ngày 27/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 140, Điều 33; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn xác nhận về việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra; quyết định về án phí.Ngày 05 tháng 12 năm 2017, bị cáo Hoàng Văn T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Hoàng Văn T giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo với các lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị cáo mới sinh con vào tháng 12/2017; gia đình có công với cách mạng, ông nội bị cáo là liệt sỹ; người bị hại có đơn đề nghị không xử lý về hình sự đối với bị cáo; bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu...

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Văn T về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" là đúng người, đúng tội, không oan. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã giao nộp thêm một số tài liệu mới (kết quả siêu âm của vợ là Lý Thị Ngọc D; Huân chương chiến sỹ giải phóng Hạng ba của Liệt sỹ Hoàng Thế L4 là ông nội của bị cáo; xác nhận của UBND xã M vào đơn xin hưởng án treo), đây là các tình tiết mới; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 và nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999); bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có đủ điều kiện cho hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định và hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Hoàng Văn T mức hình phạt 06 tháng tù giam là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

[3] Sau khi phạm tội, bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đã trả lại toàn bộ tài sản cho người bị hại. Ngoài ra, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã xuất trình thêm được tài liệu mới là một bản siêu âm của vợ là Lý Thị Ngọc D (tại phiên tòa bị cáo trình bày vợ bị cáo đã sinh con vào tháng12/2017); Huân chương chiến sỹ giải phóng Hạng ba của liệt sỹ Hoàng Thế L4, là ông nội của bị cáo; xác nhận vào đơn đề nghị cho hưởng án treo của UBND xã M. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới so với các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng nên có thể áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.

[4] Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả, tài sản đã trả lại cho người bị hại; người bị hại có đơn xin miễn xử lý hình sự đối với bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; về hoàn cảnh gia đình, vợ bị cáo mới sinh con nhỏ cần sự chăm sóc của bị cáo; bản thân bị cáo có thể tự cải tạo tại địa phương. Xét hoàn cảnh phạm tội, hoàn cảnh gia đình và đối chiếu với Nghị quyết số 01/2013/NQ- HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo, thì có đủ điều kiện cho bị cáo hưởng án treo. Vì vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự, cụ thể giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Nhận định này cũng phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa. Việc sửa án sơ thẩm là do có tình tiết mới.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị,

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo Hoàng Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm 74/2017/HSST ngày 27/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 140; Điều 60; điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 07/02/2018).

Giao bị cáo Hoàng Văn T cho Ủy ban nhân dân xã M huyện V, tỉnh Lạng Sơn để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Hoàng Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

519
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2018/HS-PT ngày 07/02/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:10/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;