TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 75/2018/HSPT NGÀY 30/01/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2017/TLPT-HS ngày 23 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo Đào Văn Th phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" do có kháng cáo của bị cáo, người bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2016/HSST ngày 20 tháng 12 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo, bị kháng nghị:
Đào Văn Th, sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT: Tổ 2A, khu 1, phường Cao X, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Nhân viên Ngân hàng; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông Đào Văn Th1 và bà Mạc Thị M1; có vợ là Bùi Thị H và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 07/8/2015, thay thế biện pháp ngăn chặn ngày 29/7/2016, hiện tại ngoại; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Đào Văn Th:
1. Luật sư Vũ Gia Tr; có mặt.
2. Luật sư Phạm Hương Gi; vắng mặt.
Đều thuộc Văn phòng luật sư Phạm Hồng H1 và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
* Người bị hại có kháng cáo:
1. Ông Trần Ngọc B, sinh năm 1959; trú tại: Tổ 10, khu 1, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
2. Bà Lê Thị L1, sinh năm 1973; trú tại: Tổ 8, khu 1, phường Cao Th2, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian năm 2011 - 2012, Đào Văn Th là nhân viên, rồi quyền Trưởng phòng tín dụng 2, Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) - Chi nhánh Quảng Ninh. Trong quá trình giao dịch, Th có quen biết bà Phùng Thị Thu H2, ông Trần Ngọc B và bà Lê Thị L1 và có vay của bà H2 250 triệu đồng, vay của ông B 01 tỷ 680 triệu đồng, vay của bà L1 500 triệu đồng, nhằm mục đích kinh doanh và với lãi xuất thỏa thuận là 2.000đ/ 1 triệu đồng/ một ngày. Đến giữa tháng 5/2012, Th cùng vợ, con bỏ trốn khỏi địa phương. Không liên lạc được với Th, ông B và bà H2 đã làm đơn tố cáo Th đển Cơ quan điều tra. Quá trình điều tra, xác minh, địa phương cũng như gia đình Th đều không biết Th ở đâu, vì vậy Cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã Th. Ngày 07/8/2015, Th bị bắt theo lệnh truy nã, thì cũng thời điểm này bà L1 có đơn tố cáo Th. Trong quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận có vay số tiền trên, nhưng vì làm ăn thua lỗ không có tiền trả, xin được trả dần nhưng ông B không đồng ý và đe dọa sẽ tố cáo với cơ quan nơi Th công tác để Th mất việc làm. Do lo sợ vì bị đe dọa nhiều lần nên bị cáo đã đưa vợ con bỏ trốn. Tổng số tiền Th đã chiếm đoạt là 2.430.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2016/HSST ngày 20/12/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Th phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 3 Điều 175; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Đào Văn Th 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ đi thời gian đã tạm giam từ ngày 07/8/2015 đến ngày 29/7/2016.
Áp dụng Điều 471; khoản 5 Điều 474; khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự, buộc Đào Văn Th phải trả cho bà Lê Thị L1 số tiền 425.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28 và ngày 31/12/2016, người bị hại bà Lê Thị L1, ông Trần Ngọc B kháng cáo đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường ngay cho bà L1 số tiền 425 triệu đồng và buộc bị cáo phải trả lãi theo lãi suất ngân hàng, đồng thời đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.
Ngày 30/12/2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có Quyết định kháng nghị số 03/KSXX-HSST đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2016/HSST ngày 20/12/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Đào Văn Th.
Ngày 02/01/2017, bị cáo Đào Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 26/01/2018, bà Lê Thị L1 và ông Trần Ngọc B có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, bà L1 đã nhận được số tiền bị cáo bồi thường sau khi xét xử sơ thẩm là 100 triệu đồng và đề nghị xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Đào Văn Th vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị Hội đồng xét xử: Người bị hại rút kháng cáo do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo của người bị hại. Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo theo khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự là có căn cứ, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự là có căn cứ nhưng xử bị cáo 05 năm tù là quá nhẹ, do đó đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Về phần lãi suất, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải trả lãi suất cho người bị hại.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường phần lớn cho người bị hại. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tiếp tục bồi thường cho người bị hại đã rút kháng cáo và xin giảm hình phạt cho bị cáo. Do đó, thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 năm tù là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị và chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Phần đối đáp đại diện Viện kiểm sát và Luật sư vấn giữ nguyên quan điểm như ở phần tranh luận.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và người tham gia tố tụng khác;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trước khi mở phiên tòa, người bị hại là bà Lê Thị L1 và ông Trần Ngọc B có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, do đó thấy cần chấp nhận việc rút kháng cáo của người bị hại.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ có đủ căn cứ xác định: Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và xét xử các bị cáo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người đúng tội đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung, phục vụ tốt việc giữ vững an ninh chính trị tại địa phương như Tòa án cấp sơ thẩm đã xử là có căn cứ
Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc tăng hình phạt và buộc bị cáo phải trả người bị hại lãi suất đối với khoản tiền còn chiếm đoạt Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và đơn kháng cáo người bị hại đều yêu cầu bị cáo trả lãi suất nhưng trước khi mở phiên tòa người bị hại đã rút toàn bộ nội dung kháng cáo do đó, thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị và lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa về vấn đề này.
Về kháng nghị tăng hình phạt, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã trả người bị hại 100 triệu đồng và người bị hại đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo do đó thấy không cần thiết phải tăng hình phạt đối với bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và yên tâm cải tạo thành công dân tốt cho xã hội.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bà L1, ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
QUYẾT ĐỊNH
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của người bị hại là ông Trần Ngọc B và bà Lê Thị L1.
Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc tăng hình phạt đối với bị cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2016/HSST ngày 20/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Th phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 3 Điều 175; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Đào Văn Th 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ đi thời gian đã tạm giam từ ngày 07/8/2015 đến ngày 29/7/2016.
Áp dụng Điều 471; khoản 5 Điều 474; khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự, buộc Đào Văn Th phải trả cho chị Lê Thị L1 số tiền 425.000.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã trả được 100.000.000 đồng, do đó bị cáo phải bồi thường tiếp số tiền còn lại 325.000.000 đồng.
Về án phí: Bị cáo Đào Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bà Lê Thị L1, ông Trần Ngọc B mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 75/2018/HSPT ngày 30/01/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 75/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về