TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 101/2018/HSST NGÀY 14/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 14 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2018/TLST-HS ngày 11/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2018/QĐXXST-HS ngày 31/10/2018 đối với các bị cáo:
1. Phùng Quốc V; Tên gọi khác: (Không có); Sinh ngày: 10 tháng 08 năm 1981 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ x, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phùng T (Chết); Mẹ: Bà Chế Thị C (sinh năm 1964); Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Đào Thị Thanh T (sinh năm 1983) và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Thị H; Tên gọi khác: (Không có); Sinh ngày: 12 tháng 12 năm 1968 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số y đường H, quận L, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn N (Chết); Mẹ: Bà Phan Thị M (sinh năm 1935); Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất. Chồng: Huỳnh Thư (sinh năm 1969) và có 03 người con sinh năm 1992, 1993, và 1997; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Thị Đ; Tên gọi khác: (không có); Sinh năm 1958 (không rõ ngày, tháng sinh) tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ z, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm X (Chết); Mẹ: Bà Phạm Thị N (sinh năm 1938); Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất. Chồng: Nguyễn Văn Sơn (Chết) và có 02 người con sinh năm 1990 và 1993; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
4. Trương Thị H; Tên gọi khác: (Không có); Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1971 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ n, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Buôn bán: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trương Văn X (Chết); Mẹ: Bà Trần Thị H (chết); Gia đình có 05 người bị cáo là con thứ 4. Chồng: Nguyễn Văn H (Chết) và có 02 người con sinh năm 1991 và sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị B, sinh năm 1965. Địa chỉ: Tổ a, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, có mặt.
- Người làm chứng:
+ Chị Lê Thị Phương T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Tổ y, phường H, quận LiênChiểu, thành phố Đà Nẵng, có mặt.
+ Ông Nguyễn V: sinh năm 1982. Địa chỉ: Tổ z, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13h00’ ngày 03/7/2018, tại quán cà phê nhà bà Hồ Thị B, số y Dương Đức Hiền, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Công an quận Liên Chiểu tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện và bắt quả tang Phùng Quốc V, Phạm Thị Đ, Nguyễn Thị H và Trương Thị H đang có hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức binh xập xám. Những người này sử dụng một bộ bài tây 52 lá chia làm 04 cửa, mỗi cửa 13 lá và được chia làm 03 chi (một chi 03 lá, 02 chi còn lại mỗi chi 05 lá). Trong đó 03 người chơi chính là Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H và Phạm Thị Đmỗi người chơi 01 cửa, còn một cửa bỏ trống. Trương Thị H theo cửa của V, trongnhững người chơi chính, mỗi người làm cái 03 ván xoay vòng, mỗi ván người làm cái được đặt cược từ 300.000đ đến 500.000đ, người chơi đặt cược từ 100.000đ đến300.000đ. Trong quá trình tham gia đánh bạc, những người chơi thống nhất với nhau không để tiền tên chiếu bạc mà để tiền trong người, kết thúc mỗi ván bài người thua lấy tiền ra chung cho người thắng và cất tiền vào trong người. Cơ quan Công an quận Liên Chiểu yêu cầu các đối tượng dừng việc đánh bạc, tiến hành kiểm tra và thu giữ trên người các đối tượng tổng cộng 18.800.000đ (trong đó thu giữ của: Phùng Quốc V4.200.000đ, Phạm Thị Đ 4.000.000đ, Trương Thị H 4.400.000đ và Nguyễn Thị H6.200.000đ).
Tang vật thu giữ 01 bộ bài tây 52 lá và số tiền 18.800.000đ
Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 09/10/2018 bị cáo Phùng Quốc V, Phạm Thị Đ, Nguyễn Thị H, Trương Thị H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào tính chất, mức độ, nhân thân của các bị cáo, đề nghị HĐXX:
- Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015. Xử phạt: Phùng Quốc V từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng về tội “Đánh bạc”.
Phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền: 10.000.000đ.
- Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015. Xử phạt: Nguyễn Thị H từ 09 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng về tội “Đánh bạc”.Phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền: 10.000.000đ.
- Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015. Xử phạt: Phạm Thị Đ từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng về tội “Đánh bạc”.Phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền: 10.000.000đ.
- Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015. Xử phạt: Trương Thị H từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng về tội “Đánh bạc”. Phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền: 10.000.000đ.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng như đã đề cập tại bản cáo trạng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo cho rằng cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS là đúng người, đúng tội. Các bị cáo đã thấy được sai trái, ăn năn hối cãi, các bị cáo phạm tội lần đầu, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:
Khoảng 11h15’ ngày 03/7/2018, tại số y Dương Đức Hiền thuộc tổ x, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Phùng Quốc V, Phạm Thị Đ, Nguyễn Thị H và Trương Thị H đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức binh xập xám, đến 13h00’ cùng ngày thì bị lực lượng Công an quận Liên Chiểu bắt quả tang và thu giữ tổng số tiền các đối tượng đã sử dụng vào việc đánh bạc là 18.800.000đ. Trong đó thu của: Phùng Quốc V 4.200.000đ, Phạm Thị Đ 4.000.000đ, Trương Thị H 4.400.000đ và Nguyễn Thị H 6.200.000đ.
Cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 09/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố các bị cáo Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H, Phạm Thị Đ và Trương Thị H phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến khách thể là trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép nhưng vẫn sát phạt nhau bằng tiền là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm. Nhưng vì mục đích vụ lợi, các bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi có ý trực tiếp. Trong vụ án có 04 bị cáo tham gia, các bị cáo không hứa hẹn từ trước, tình cờ gặp nhau và nảy sinh ý định đánh bạc, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Hội đồng xét xử xem xét đánh giá, vị trí vai trò của từng bị cáo theo quy định tại Điều 17 và Điều 58 BLHS năm 2015 để làm căn cứ Quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H và Phạm Thị Đ trực tiếp tham gia đánh bạc sát phạt với nhau. Bị cáo V dùng số tiền 3.800.000đ, bị cáo Đ dùng số tiền 4.000.000đ; bị cáo Nguyễn Thị H dùng số tiền 7.000.000đ vào việc đánh bạc nên vai trò của các bị cáo trong vụ án ngang nhau. Đối với bị cáo Trương Thị H mang theo số tiền 5.000.000đ dù không biết đánh binh xập xám nhưng vẫn tham gia thắng thua bằng cách theo bị cáo V mỗi ván 100.000đ. Bị cáo phạm tội mang tính chất bộc phát, nhất lời xét vai trò phạm tội của bịcáo Trương Thị H thấp hơn các bị cáo còn lại.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; các bị cáo có nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; lần phạm tội này là lần phạm tội lần đầu của các bị cáo. Bị cáo Đ và bị cáo Nguyễn Thị H gia đình có công cách mạng: Cha, mẹ, chồng của bị cáo Đ có công trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và được Nhà nước tặng thưởng huân, huy chương các loại, bị cáo Nguyễn Thị H có bố chồng hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, được Nhà nước công nhận liệt sỹ. Việc Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị Hội đồng xét xử phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo Trương Thị H là không cần thiết. Bị cáo Trương Thị H có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con của bị cáo bị bệnh não hiện đang điều trị tại bệnh viện. Vì vậy Hội đồng xét xử, xem xét quyết định hình phạt chính là hình phạt tù đối với bị cáo Trương Thị H cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền các bị cáo còn lại là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.Hội đồng xét xử xem xét những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình. Xét thấy chưa cần thiết cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà giao về cho chính quyền địa phương, nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục là thỏa đáng. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử cho các bị cáo được hưởng án treo để các bị cáo có cơ hội cải tạo mình thành người có ích cho xã hội.
Đối với bà Hồ Thị B, chủ quán cà phê đã để cho các bị cáo sử dụng quán và nhà của mình làm chỗ đánh bạc nhưng bà B không tham gia đánh bạc và không hưởng lợi từ việc đánh bạc nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự và Chủ tịch quận Liên Chiểu đã xử phạt hành chính đối với và B số tiền 7.500.000đ là có cơ sở, nên HĐXX không đề cập giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá.
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 18.800.000đ của các bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H, Phạm Thị Đ, Trương Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các Bị cáo Phùng Quốc V, Phạm Thị Đ, Nguyễn Thị H vàTrương Thị H phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65; Điều 35 và Điều 58 BLHS năm 2015. Xử phạt: Phùng Quốc V 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án.
Phạt bổ sung 10.000.000đ đối với bị cáo Phùng Quốc V.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015 Xử phạt: Nguyễn Thị H 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án.Phạt bổ sung 10.000.000đ đối với bị cáo Nguyễn Thị H.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 35 BLHS năm 2015. Xử phạt: Phạm Thị Đ 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án.Phạt bổ sung 10.000.000đ đối với bị cáo Phạm Thị Đ.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và Điều 65 BLHS năm 2015. Xử phạt: Trương Thị H 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H, Phạm Thị Đ và Trương Thị H về Ủy ban nhân dân phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng để theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 18.800.000đ của các bị cáo. (Hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2018).
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Phùng Quốc V, Nguyễn Thị H,Phạm Thị Đ, Trương Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) trích sao bản án.
(Đã giải thích về quy định án treo cho các bị cáo)
Bản án 101/2018/HSST ngày 14/11/2018 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 101/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về