Bản án 09/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2021/TLST- HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nông Văn D - Sinh ngày 01/01/1956 tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Giáy; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nông Tờ C (Đã chết) và bà Lò Thị N (Đã chết); Vợ là Nguyễn Thị T - Sinh năm 1955; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1981, con nhỏ nhất sinh năm 1997; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 , hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Hương Thủy - Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. “Có mặt”

- Người chứng kiến: Ông Hồ A T - Sinh năm 1965 Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 00 phút ngày 15/12/2020, Nông Văn D đi bộ từ nhà tại thôn Thành Sơn, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đến thôn San Lùng, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi Nông Văn D mang theo số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Khi đến nơi, Nông Văn D gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng ở ven đường, Nông Văn D tiến lại gần hỏi người đàn ông này “Anh có biết ai bán ma túy không?” người đàn ông này trả lời “Tôi bán, mua bao nhiêu?” Nông Văn D nói “Mua 200.000 (hai trăm nghìn) đồng” và đưa tiền cho người đàn ông này. Người đàn ông này nhận tiền rồi lấy từ trong túi vải thổ cẩm đang đeo trên người ra 01 (một) gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng đưa cho Nông Văn D, Nông Văn D nhận gói ma túy mở ra kiểm tra thấy bên trong có chứa ma túy liền gói lại và giấu vào trong chiếc tất đang đeo ở chân phải sau đó đi bộ về nhà. Đến khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày, Nông Văn D đi bộ đến đầu thôn San Lùng, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thì bị tổ công tác Công an huyện Bát Xát phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột khô màu trắng vón cục trong chiếc tất bên phải Nông Văn D đang đeo.

Ngày 15/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát đã ra quyết định trưng cầu giám định về ma túy số 04 đối với chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Nông Văn D ngày 15/12/2020.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 15/12/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát và Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định:

01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Nông Văn D có khối lượng là 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam, trích mẫu 0,08 (không phẩy không tám) gam để tiến hành giám định, còn lại 0,30 (không phẩy ba mươi) gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tại Kết luận giám định số 07/GĐMT ngày 17/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai đã kết luận: 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam chất bột khô, màu trắng, vón cục loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Nông Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nông Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nông Văn D về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Nông Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,30 gam Hêrôin còn lại sau giám định cùng mảnh nilon và bì niêm phong ban đầu gửi giám định.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà người bào chữa cho bị cáo Nông Văn D trình bày: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Nông Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Nông Văn D là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án 01 năm tù. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng, bản thân nghiện chất ma túy vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bát Xát, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nông Văn D: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Nông Văn D là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết xã hội và pháp luật, nhận thức được tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vào ngày 15/12/2020 Nông Văn D đã có hành vi mua ma túy về mục đích để sử dụng. Theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, số ma túy thu giữ được của bị cáo Nông Văn D là 0,38 gam Hêrôin. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nông Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nông Văn D vào ngày 15/12/2020 tại thôn San Lùng, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Do Nông Văn D không biết tên, tuổi và địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để chứng minh làm rõ vì vậy không đề cập xử lý là phù hợp.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, tron g quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nông Văn D đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bị cáo không có việc làm ổn định, là đối tượng nghiện ma túy nên không có tài sản và thu nhập gì. Vì vậy không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,38 gam Hêrôin, sau khi trích mẫu giám định còn lại 0,30 gam Hêrôin đã được tái niêm phong cùng mảnh nilon và bì niêm phong ban đầu gửi giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nông Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nông Văn D 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,30 gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định cùng mảnh nilon và bì niêm phong ban đầu gửi giám định được tái niêm phong theo quy định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Nông Văn D ngày 15/12/2020 tại thôn San Lùng, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.

(Vật chứng thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03 tháng 02 năm 2021 giữa Công an huyện Bát Xát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nông Văn D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;