Bản án 08/2021/HSST ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 05 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Mai Chung Đ, sinh ngày 17/10/2000, tại huyện YM, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn BH, xã YN, huyện YM, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn T và bà Nguyễn Thị Th; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú hiện đang tại ngoại đến nay (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Mai Văn C, sinh năm 1982; địa chỉ: thôn BH, xã YN, huyện YM, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Mai Quang H (vắng mặt).

Người đại diện (mẹ đẻ của anh Mai Quang H): bà Nguyễn Thị Th (có mặt)

- Người chứng kiến:

+ Ông Phạm Ngọc Th (vắng mặt).

+ Anh Phạm Đức T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng pháo nổ trong dịp Tết nguyên đán Tân Sửu năm 2021, Mai Chung Đ đã tìm hiểu qua mạng facebook để mua pháo và biết một người phụ nữ không quen biết có nick facebook là “Thu Hồng” có pháo nổ bán. Đ sử dụng tài khoản có tên “Ông trẻ” nhắn tin qua ứng dụng Messenger facebook thỏa thuận với người có nick facebook là “Thu Hồng” đặt mua mua 04 bệ pháo, gồm 02 bệ pháo loại 36 ống và 02 bệ pháo loại 49 ống với tổng số tiền thỏa thuận là 2.800.000 đồng, sau khi thỏa thuận xong, Đ nhắn tin cho người phụ nữ có tên tài khoản “Thu Hồng” số điện thoại 0387.978.546 của mình để liên hệ. Khoảng 17 giờ cùng ngày Đ nhận được cuộc điện thoại gọi từ số 0918.714.408 bảo Đ đến nhà Văn hóa thành phố TĐ để lấy pháo nổ. Nghe xong điện thoại, Đ rủ em trai là Mai Quang H, sinh năm 2005 đi cùng. H tưởng Đ rủ lên thành phố TĐ lấy đồ nên đồng ý. Mai Chung Đ mượn xe môtô nhãn hiệu Exciter, BKS: 35B2 – 50032 của anh Mai Văn C, sinh 1982 là hàng xóm chở H từ thôn BH, xã YN, huyện YM lên thành phố TĐ. Khi đến nhà Văn hóa thành phố TĐ, Đ dùng điện thoại của mình gọi điện đến số 0918.714.408 nói đã đến nhà Văn hóa thành phố TĐ. Một lúc sau có một người đàn ông đi xe môtô nhãn hiệu Airblade, mầu đen đến hỏi Đ “Có phải em mua pháo của chị H không”, Đ trả lời “vâng”. Người đàn ông điều khiển xe môtô đi trước dẫn đường, Đ điều khiển xe môtô chở H theo sau. Khoảng 19 giờ cùng ngày, khi đến đường Ngô Thì Nhậm, thuộc tổ 13 phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, người đàn ông đi xe môtô rẽ vào ngõ, đi được khoảng 50 mét thì dừng lại, Đ dừng xe ở đầu ngõ và bảo H ở lại trông xe, sau đó đi bộ vào ngõ đến vị trí người đàn ông, người đàn ông chỉ tay vào bao tải xác rắn mầu xanh để ở ven đường. Đ đến mở kiểm tra thấy bên trong có 04 bệ pháo nổ nên lấy tiền trong túi ra trả cho người đàn ông 2.800.000 đồng, người đàn ông nhận tiền và quay xe đi về hướng đầu ngõ, còn Đ sách bao tải xác rắn bên trong có 04 bệ pháo ở tay phải đang đi bộ ra phía đầu ngõ chỗ H đang đợi. Khi Đ sách bao tải đến gần vị trí xe môtô của H thì bị tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp kiểm tra, phát hiện, thu giữ và niêm phong 01 bao tải xác rắn màu xanh, bên trong có 04 hộp hình chữ nhật, trong đó:

02 khối hình hộp có cùng kích thước (14,5 x 14,5 x 14,5)cm có đặc điểm hình dạng giống nhau, mặt trên bọc nilon mầu vàng, mặt dưới bọc nilon mầu nâu, 04 mặt xung quanh in hoa văn nhiều mầu sắc và có nhiều chữ nước ngoài; 02 khối hình hộp chữ nhật có cùng kích thước (18 x 18 x 15)cm đều có đặc điểm hình dáng giống nhau, mặt trên bọc nilon mầu vàng, mặt dưới bọc nilon mầu bạc, 04 mặt xung quanh đều in hoa văn nhiều mầu sắc có nhiều chữ nước ngoài). Ngoài ra còn thu giữ 01 xe môtô nhãn hiệu Exciter, BKS: 35B2 – 50032, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mầu vàng; 01 căn cước công dân mang tên Mai Chung Đ, số tiền 150.000 đồng.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Tam Điệp tiến hành lấy mẫu gửi đi giám định:

+ 02 khối hình hộp chữ nhật, có kích thước (14,5 x 14,5 x 14,5) cm có đặc điểm hình dạng giống nhau, mặt trên bọc nilon mầu vàng, mặt dưới bọc nilon mầu nâu, 04 mặt xung quanh in hoa văn nhiều mầu sắc và có nhiều chữ nước ngoài. Được ký hiệu M1 và M2;

+ 01 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (18 x 18 x 15)cm, mặt trên bọc nilon mầu vàng, mặt dưới bọc nilon mầu bạc, 04 mặt xung quanh đều in hoa văn nhiều mầu sắc có nhiều chữ nước ngoài. Ký hiệu M3;

+ 01 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (18 x 18 x 15)cm, mặt trên bọc nilon mầu vàng, mặt dưới bọc nilon mầu bạc, 04 mặt xung quanh đều in hoa văn nhiều mầu sắc có nhiều chữ nước ngoài. Ký hiệu M4.

Tại Kết luận giám định số 98/KLGĐ-PC09-ChN ngày 08/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: 04 khối hình hộp ký hiệu M1, M2, M3 và M4 gửi giám định đều là pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (bên trong có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng của 04 hộp pháo gửi giám định ký hiệu M1 là 1,419kg; M2 là 1,412kg; M3 là 2,391kg và M4 là 2,363kg. Tổng khối lượng của 04 hộp pháo trên là 7,585 kg (Bẩy phẩy năm trăm tám mươi lăm kilôgam).

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS - TPTĐ, ngày 19 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình truy tố bị cáo Mai Chung Đ về tội “Tàng trữ hàng cấm”, theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Mai Chung Đ phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo Mai Chung Đ từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Mai Chung Đ cho Ủy ban nhân dân xã YN, huyện YM, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ các điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, trả lại cho bị cáo 150.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội, tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung là công cụ, bị cáo đã sử dụng để liên lạc để mua pháo nổ; tịch thu thu tiêu hủy: 01 thẻ sim mạng Viettel là công cụ bị cáo sử dụng để liên lạc mua pháo nổ, 01 bao tải xác rắn do không có giá trị sử dụng và tịch thu tiêu hủy số pháo nổ đã thu giữ còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành.

Tại phiên tòa, bị cáo Mai Chung Đ thừa nhận có hành vi mua 7,585 kg (bẩy phẩy năm trăm tám mươi lăm kilôgam) pháo nổ về đốt trong dịp tết, ngay sau khi mua được pháo thì bị bắt giữ, diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cho rằng việc bị truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo không nói lời sau cùng.

Quá trình điều tra, anh Mai Văn C khai báo đã cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô thuộc quyền sở hữu của mình có biển kiểm soát là BKS: 35B2 – 50032 để làm phương tiện đi làm việc, anh C không biết bị cáo dùng xe mô tô để đi mua pháo nổ, anh Mai Văn C xác nhận đã được Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Công an thành phố Tam Điệp trả lại chiếc xe mô tô và đến nay không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến, biên bản sự việc, kết luận giám định, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 04/01/2021, tại khu vực đường Ngô Thì Nhậm, thuộc tổ 13 phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, Mai Chung Đ có hành vi cất giữ 7,585 kg (bẩy phẩy năm trăm tám mươi lăm kilôgam) pháo nổ, bao gồm: 04 bệ pháo, gồm 02 bệ pháo loại 36 ống và 02 bệ pháo loại 49 ống nhằm mục đích sử dụng cho bản thân trong dịp tết nguyên đán Tân Sửu năm 2021.

[3] Khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự quy định tội Tàng trữ hàng cấm như sau:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

….

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam” Hành vi cất giữ 7,585 kg pháo nổ của bị cáo là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương. Đối chiếu hành vi của bị cáo với quy định nêu trên, hành vi của bị cáo Mai Chung Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Mai Chung Đ theo bản cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Mai Chung Đ không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định.

[5] Bị cáo tàng trữ pháo nổ để sử dụng cho bản thân trong dịp tết nguyên đán nên việc xử lý bị cáo bằng loại hình phạt tù là cần thiết để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên khối lượng pháo nổ bị cáo tàng trữ không lớn, bản thân có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, có thể tự cải tạo tại địa phương mà không gây nguy hiểm cho xã hội nên cần chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát, áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo, giao cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo phạm tội nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Số pháo nổ được hoàn lại sau khi giám định gồm: 04 hộp pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ, ký hiệu lần lượt từ M1 đến M4 còn lại sau giám định. Khối lượng còn lại M1 là 1,376kg; M2 là 1,378kg; M3 là 2,359kg và M4 là 2,330 kg được niêm phong trong thùng bìa cát tông theo quy định đều là vật cấm lưu hành nên căn cứ các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ mầu vàng là tài sản hợp pháp của bị cáo, bị cáo dùng để giao dịch liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Đối với đối với 01 chiếc thẻ sim mạng Viettel cũng là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 150.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 căn cước công dân mang tên Mai Chung Đ là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp trả lại cho Mai Chung Đ là đúng quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Mai Văn C 01 xe mô tô biển kiểm soát 35B2 – 50032 nhãn hiệu Exciter là đúng pháp luật do anh C không có lỗi là đúng pháp luật.

[7] Về nguồn gốc số pháo nổ: căn cứ vào lời khai của bị cáo bị cáo Mai Chung Đ khai mua của một bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh người phụ nữ có tên tài khoản Messenger “Thu Hồng” trên mạng xã hội, người đàn ông có số điện thoại 0918.714.408 nhưng không xác định được là ai nên không có cơ sở để xử lý.

[8] Bị cáo Mai Chung Đ bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ các điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Mai Chung Đ phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Mai Chung Đ 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 05/02/2021.

Giao bị cáo Mai Chung Đ cho Ủy ban nhân dân xã YN, huyện YM, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 04 hộp pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ, ký hiệu lần lượt từ M1 đến M4 còn lại sau giám định. Khối lượng còn lại của 4 hộp pháo ký hiệu M1 là 1,376kg; M2 là 1,378kg; M3 là 2,359kg và M4 là 2,330kg. Tất cả được niêm phong trong một thùng bìa cát tông, dán giấy niêm phong theo quy định “mẫu vật sau khi giám định kèm theo kết luận giám định số 98/KLGĐ-PC09-ChN ngày 08/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình”.

+ 01 bao tải xác rắn mầu xanh, kích thước (80 x45)cm đã qua sử dụng;

+ 01 sim VIETEL số 0387978546.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ mầu vàng, màn hình bị rạn nứt đã qua sử dụng, số IMEI 1: 358131092805259; IMEI 2: 358132092805257.

- Trả lại cho bị cáo Mai Chung Đ số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng). Hiện đang được quản lý tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp tại Kho bạc Nhà nước thành phố Tam Điệp theo Ủy nhiệm chi lập ngày 19/01/2021 giữa Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 21/01/2021 giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Chung Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2021/HSST ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:08/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;