TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2022/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022, về việc: “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số:12/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 12/9/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Lừ Văn H , sinh năm: 1990.
Địa chỉ: bản N H , xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (Có mặt tại phiên toà).
2. Bị đơn: chị Lò Thị Khiển, sinh năm 2000.
Nơi cư trú: bản N H , xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (Có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà anh Lừ Văn H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: anh Lừ Văn H kết hôn với chị Lò Thị Kh trên cơ sở tình yêu tự nguyện, không bị ai lừa dối hay ép buộc, có đăng ký kết hôn vào ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Sau khi đăng ký kết hôn chị Lò Thị Kh dọn về chung sống với anh H và gia đình tại bản N H , xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Thời gian đầu chúng vợ chồng anh H và chị Kh sống với nhau rất hạnh phúc. Nhưng do anh H đi làm ăn xa nhà để kiếm tiền về nuôi gia đình và các con ăn học, thì ở nhà chị Kh đã đi ngoại tình với người đàn ông khác. Sau sự việc xẩy ra anh H cùng hai bên gia đình nội ngoại cũng đã trao đổi, hòa giải với chị Kh để vợ chồng anh H và chị Kh về chung sống với nhau, xây lại hạnh phúc gia đình nhưng không thành. Lý do là chị Kh ngại với anh H và gia đình bên nhà Nội nên chị Kh tự ý bỏ nhà ra đi từ ngày 03 tháng 01 năm 2022 và vợ chồng anh H , chị Kh sống ly thân không có liên lạc gì với nhau cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng anh H và chị Kh không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh Lừ Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lò Thị Kh .
Về con chung và ngh a vụ cấp dư ng: anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh có 02 con chung là cháu Lừ Quang Nh , sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K , sinh ngày 15/02/2019. Hiện tại cả hai con chung đang sống cùng anh H tại bản H , xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Sau khi ly hôn anh H có nguyện vọng sẽ là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc giáo dục 02 cháu Lừ Quang Nh và cháu Lừ Phạm K cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi; Về cấp dư ng nuôi con chung: Anh H không yêu cầu chị Kh phải cấp dư ng nuôi con chung. Chị Kh nhất trí nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và khoản nợ chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng anh H và chị Kh không có tài sản chung và khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, bị đơn là chị Lò Thị Kh trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị Lò Thị Kh kết hôn với anh Lừ Văn H trên cơ sở tình yêu tự nguyện, không bị ai lừa dối hay ép buộc, có đăng ký kết hôn vào ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân xã N C, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Sau khi đăng ký kết hôn chị Lò Thị Kh dọn về chung sống với anh H và gia đình tại bản , xã N C, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Thời gian đầu chị Kh và anh H sống với nhau rất hạnh phúc. Trong quá trình chung sống đến đầu năm 2022 thì vợ chồng anh chị xẩy ra mâu thuẫn, không có tiếng nói chung, do tính cách không hợp nhau nên chị Kh và anh H đã sống ly thân với nhau cho đến nay, không có liên lạc gì với nhau nữa. Hiện nay tình cảm vợ chồng chị Khvà anh H không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh Lừ Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lò Thị Kh, chị Kh nhất trí.
Về con chung và ngh a vụ cấp dư ng: chị Lò Thị Kh và anh Lừ Văn H có 02 con chung là cháu Lừ Quang Nh, sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K, sinh ngày 15/02/2019. Hiện tại cả hai con chung đang sống cùng anh H tại bản H, xã N C, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Sau khi ly hôn Hại có nguyện vọng sẽ là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc giáo dục 02 cháu Lừ Quang Nh và cháu Lừ Phạm K cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị khiển nhất trí.
Về cấp dư ng nuôi con chung: Anh Hkhông yêu cầu chị Kh phải cấp dư ng nuôi con chung. Chị Kh nhất trí nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và khoản nợ chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng chị Kh và anh H không có tài sản chung và khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo biên bản xác minh, ngày 18/4/2022 tại bản N Sài, xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ. Ông Lù Văn Á (Trưởng bản) cho biết: Chị Lò Thị Kh có về sống cùng với bố mẹ ngoại tại bản N S, cụ thể là từ thời gian nào thì ông không nắm được. Hiện tại chị Kh không có mặt tại địa phương, không biết chị Khiển đi đâu, làm gì; Ông Lò Văn Đ (bố đẻ của chị Kh) cho biết: Chị Kh và anh Lừ Văn H có xẩy ra mâu thuẫn gia đình nên chị Khcó về sinh sống cùng gia đình tôi từ tháng 11 năm 2021, nguyên nhân là con rể Lừ Văn H đi làm thuê xa nhà, chị Kh ở nhà nên yêu người đàn ông khác. Khi bị hai bên gia đình nội ngoại phát hiện cúng đã hòa giải cho vợ chồng anh H chị Kh về chung sống với nhau nhưng không thành. Hiện tại chị Kh đi làm thuê ở Thái Nguyên, ông không biết địa chỉ ở đâu, đi đâu, đi làm từ tết đến nay chị Kh chưa về nhà lần nào. Hiện tại cháu Lừ Phạm K và cháu Lừ Quang Nh đang ở cùng với bố Lừ Văn H tại bản H, xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ phát biểu ý kiến như sau:
1.Về thủ tục tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn anh Lừ Văn H đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn Lò Thị Kh, quá trình giải quyết vụ án chị Lò Thị Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị Kh đều không đến Toà án để tham gia Tố tụng, không chấp hành nghiêm túc quy định pháp luật, theo quy định tại điểm tại các Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngày 12/9/2022 Tòa án đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn Lò Thị Kh vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất và ấn định thời gian mở lại phiên toà vào ngày 29/9/2022. Tại phiên Toà vào ngày 29/9/2022 các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và ngh a vụ theo quy định của pháp luật.
2. Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40, Điều 147, Điều 227, 228, 238, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57 , Điều 58, Điều 59, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung và cấp dư ng nuôi con: Do chị Lò Thị Kh thường xuyên không có mặt tại nơi cư trú, không rõ địa chỉ, từ khi ly thân cho đến nay chị Kh không quan tâm, thăm nom, chăm sóc con cái cả về vật chất lẫn tinh thần, việc nuôi dư ng, chăm sóc con cái đều do anh Hại đảm nhiệm. Để đảm bảo đúng quyền lợi cho các con, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Giao cháu cháu Lừ Quang Nh, sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K, sinh ngày 15/02/2019 cho anh Lừ Văn H là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là cháu cháu Lừ Quang Nh và cháu Lừ Phạm K cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Kh được quyền đi lại, thăm nom con chung nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Anh H không yêu cầu chị Kh phải cấp dư ng nuôi con chung. Chị Lò Thị Kh nhất trí.
Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên, các bên đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dư ng con chung hoặc mức cấp dư ng nuôi con chung theo quy định.
Về tài sản và khoản nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, đề nghị miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho anh Sỉnh, do anh Hại là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Xét đơn khởi kiện của anh Lừ Văn H xác định đây là vụ án ly hôn theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Thời điểm anh Lừ Văn H nộp đơn khởi kiện chị Lò Thị Kh có đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản H, xã N C, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng cho chị Lò Thị Khiển và anh Lừ Văn H đúng theo quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 177, Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngày 12/8/2022, Tòa án đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn chị Lò Thị Kh vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất và ấn định thời gian mở lại phiên toà vào ngày 29/9/2022. Tại phiên Toà vào ngày 29/9/2022 các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và ngh a vụ theo quy định của pháp luật.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, được tự do tìm hiểu, không bị ai lừa dối hay ép buộc và có đăng ký kết hôn vào 16 tháng 4 năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Điều đó phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn của anh Hại và chị Lò Thị Kh do UBND xã N C cấp và anh H đã giao nộp tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì vợ chồng anh H và chị Kh bắt đầu xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân từ đó cho đến nay, không liên lạc và không quan tâm đến nhau.
Toà án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh . Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án chị Lò Thị Kh không có thiện chí hợp tác, không có yêu cầu phản tố, không đưa ra được các chứng cứ, biện pháp gì để cải thiện đời sống chung của vợ chồng. Hiện nay vợ chồng anh H và chị Kh vẫn sống ly thân, không liên lạc và không quan tâm đến nhau nữa. Điều đó chứng tỏ vợ, chồng chung sống với nhau không có hạnh phúc, cuộc sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử cần căn vào khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lừ Văn H , cho anh Lừ Văn H được ly hôn với chị Lò Thị Kh .
[3]. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình chung sống anh Lừ Văn H và chị Khiển có 02 con chung tên là cháu Lừ Quang Nh , sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K , sinh ngày 15/02/2019. Theo đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Lừ Văn H trình bày: Sau khi ly hôn với chị Lò Thị Kh , anh H có nguyện vọng và mong muốn là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là cháu Lừ Quang Nh và cháu Lừ Phạm K cho đến khi 02 con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh H không yêu cầu chị Kh phải cấp dư ng nuôi 02 con chung. Chị Kh được quyền đi lại, thăm nom con chung nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Anh H không yêu cầu chị Lò Thị Kh phải cấp dư ng nuôi con chung, Chị Kh nhất trí.
Theo biên bản xác minh, ngày 18/4/2022 tại bản N S , xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ. Ông Lù Văn Á (Trưởng bản) cho biết: Chị Lò Thị Kh có về sống cùng với bố mẹ ngoại tại bản N S , cụ thể là từ thời gian nào thì ông không nắm được. Hiện tại chị Khiển không có mặt tại địa phương, không biết chị Khiển đi đâu, làm gì; Ông Lò Văn Đ (bố đẻ của chị Kh ) cho biết: Chị Kh và anh Lừ Văn H có xẩy ra mâu thuẫn gia đình nên chị Khiển có về sinh sống cùng gia đình tôi từ tháng 11 năm 2021, nguyên nhân là con rể Lừ văn H đi làm thuê xa nhà, chị Kh ở nhà nên yêu người đàn ông khác. Khi bị hai bên gia đình nội ngoại phát hiện cúng đã hòa giải cho vợ chồng anh H chị Kh về chung sống với nhau nhưng không thành. Hiện tại chị Kh đi làm thuê ở Thái Nguyên, ông không biết địa chỉ ở đâu, đi đâu, đi làm từ tết đến nay chị Khiển chưa về nhà lần nào. Hiện tại cháu Lừ Phạm K và cháu Lừ Quang Nh đang ở cùng với bố Lừ Văn H tại bản Hoi, xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Hội đồng xét xử, xét thấy: Do chị Lò Thị Kh thường xuyên không có mặt tại nơi cư trú, không rõ địa chỉ hiện tại chị Kh . Tại phiên tòa ngày hôm nay, chị Kh cũng thừa nhận chị Kh và anh H sống ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay, chị Kh đi làm thuê không có địa chỉ rõ ràng nên thỉnh thoảng chị Kh cũng điện thoại về thăm cháu qua điện thoại của anh H để hỏi thăm sức khỏe của các cháu nhưng anh H không nghe điện thoại của Chị Kh , vì điều kiện đi làm ăn xa nên chị Kh không có thời gian về để quan tâm, thăm nom, chăm sóc các con. Việc nuôi dư ng, chăm sóc con cái đều do anh H đảm nhiệm trong khoảng thời gian mà vợ chồng anh chị sống ly thân cho đến nay. Do vậy, chị Lò Thị Kh là người không đủ điều kiện về tinh thần cũng như vật chất để trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dư ng, giáo dục 02 con chung là cháu Lừ Phạm K và cháu Lừ Quang Nh . Để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các con chung của vợ chồng anh H và chị Kh . Sau khi ly hôn được phát triển bình thường về mọi mặt và ý kiến nhất trí của chị Kh cũng như theo nguyện vọng và mong muốn của anh H là được chăm lo, giáo dục cho 02 con chung là cháu Lừ Phạm K và cháu Lừ Quang Nh cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử: Giao cháu Lừ Quang Nh , sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K , sinh ngày 15/02/2019 cho anh Lừ Văn H là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là cháu Lừ Phạm K và cháu Lừ Quang Nh cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Kh được quyền đi lại, thăm nom con chung nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Anh H không yêu cầu chị Lò Thị Kh phải cấp dư ng nuôi con chung, Chị Kh nhất trí.
Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên, các bên đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dư ng con chung hoặc mức cấp dư ng nuôi con chung theo quy định.
[4]. Về tài sản và khoản nợ chung: anh Lừ Văn H và chị Kh không có tài sản và khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
[5]. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBNTVH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Quyết định số 861/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/6/2021, Quyết định phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 và xét đơn xin miễn án phí của anh Lừ Văn H . Hội đồng xét xử tuyên miễn án phí Dân sự sơ thẩm đối với vụ án Hôn nhân và gia đình cho anh Hại theo quy định của pháp luật.
[6]. Tại phiên toà, Vị đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu – Kiểm sát viên đưa ra đề nghị về việc giải quyết vụ án là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và nội dung vụ án, vì vậy cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40, Điều 147, Điều 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh Lừ Văn Hại.
- Về quan hệ hôn nhân: Chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh theo giấy chứng nhận kết hôn số 07 ngày 16/4/2019 do Uỷ ban nhân dân xã N C , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu cấp. Quan hệ hôn nhân giữa anh Lừ Văn H và chị Lò Thị Kh chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Lừ Quang Nh , sinh ngày 29/08/2017 và cháu Lừ Phạm K , sinh ngày 15/02/2019 cho anh Lừ Văn H là người trực tiếp nuôi dư ng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là cháu Lừ Quang Nh và cháu Lừ Phạm K cho đến khi 02 cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Kh được quyền đi lại, thăm nom con chung nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Anh H không yêu cầu chị Khiển phải cấp dư ng nuôi con chung. Chị Kh nhất trí.
Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên, các bên đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dư ng con chung hoặc mức cấp dư ng nuôi con chung theo quy định.
- Về tài sản, khoản nợ chung: anh Lừ Văn H và chị Kh không có tài sản và khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
2. Án phí: Anh Lừ Văn H được miễn nộp tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Lừ Văn H và bị đơn chị Lò Thị Kh có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/ 9/2022.
Bản án 07/2022/HNGĐ-ST về ly hôn
Số hiệu: | 07/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về