TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 139/2022/DS-ST NGÀY 30/12/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con” thụ lý số: 468/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2022/QĐST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N – sinh năm 1992. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Xóm T, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
Bị đơn: Anh Phan Bá Q – sinh năm 1987. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khối 4, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Vũ Thị N trình bày:
Chị và anh Phan Bá Q trước đây là vợ chồng tuy nhiên trong quá trình chung sống đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, do đó ngày 24/4/2015 chị và anh Q ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 67/2015/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An. Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự. Phần con chung: Giao con chung Phan Bá N, sinh ngày 19/9/2013 cho anh Q chăm sóc nuôi dưỡng, chị N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản chung các bên không yêu cầu giải quyết.
Tuy nhiên sau khi ly hôn thì anh Q không trực tiếp nuôi dưỡng con chung mà giao con lại cho chị nuôi dưỡng đến nay. Do đó chị đề nghị Tòa án xem xét giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền nuôi con.
Tại đơn anh Phan Bá Q có ý kiến trình bày như sau:
Anh và chị Vũ Thị N đã được Tòa án giải quyết ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 67/2015/QĐST- HNGĐ ngày 24/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An. Về con chung vợ chồng thống nhất giao cho anh trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phan Bá N. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế khó khăn không có công ăn việc làm nên sau khi ly hôn anh đã để con lại cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến nay. Hiện tại anh cũng đang làm ăn xa không có điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, do đó chị N làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con thì anh cũng nhất trí.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì;
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 1 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 147; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn giao cháu Phan Bá N cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.
Anh Phan Bá N có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản.
Về cấp dương nuôi con: Đương sự chưa yêu cầu nên miễn xét.
- Về án phí: Chị N phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại khoản 3 Điều 28 BLTTDS; bị đơn anh Q có hộ khẩu thường trú tại thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Nghệ An được quy định tại điểm a khoản1 điều 35 BLTTDS, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An. Tại phiên tòa chị N, anh Q xin xét xử vắng mặt, do đó căn cứ Điều 227; 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định.
2. Về nội dung: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các bên được thẩm tra tại phiên toà có căn cứ khẳng định rằng: Chị Vũ Thị N và anh Phan Bá Q có 1 con chung Phan Bá N, sinh ngày 19/9/2013 và được Tòa án huyện Y, tỉnh Nghệ An giải quyết giao con như các đương sự đã trình bày ở trên.
Xét yêu cầu nuôi con là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bậc làm cha mẹ. Qua xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã H; xóm trưởng xóm T, xã H và hàng xóm của gia đình chị N tại xóm T, xã H thấy rằng hiện nay cháu Phan Bá N đang sinh sống cùng với chị Vũ Thị N. Xét thấy chị N hiện nay công việc ổn định, gần nhà có nhiều thời gian chăm sóc con chung, anh Q thường xuyên phải làm việc xa nhà, không có thời gian, điều kiện để chăm sóc con chung nên anh cũng nhất trí giao con chung cho chị N nuôi dưỡng, mặt khác cháu N có đơn xin tiếp tục được ở với mẹ để thuận tiện việc học hành, tránh bị ảnh hưởng, xáo trộn. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Phan Bá N, căn cứ Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Vũ Thị N nuôi dưỡng.
Chị N không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.
3. Về án phí: Chị P phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 81,82,83,84 Luật Hôn nhân & Gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Vũ Thị N.
Giao con chung Phan Bá N, sinh ngày 19/9/2013 cho chị Vũ Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng đến lúc đủ 18 tuổi trưởng thành.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Đương sự chưa yêu cầu, Tòa án chưa xem xét.
Anh Phan Bá Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản.
Vì lợi ích con chung các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
- Án phí: Chị Vũ Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự theo quy định.
Nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Y, Nghệ An (Theo biên lại số 0012402 ngày 07/10/2022), chị N đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại khoản điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 139/2022/DS-ST về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 139/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về