Bản án 07/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN  HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Đỗ Thanh P, sinh năm 1985, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: Ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp; Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 4/12; con ông Đỗ Văn B, sinh năm 1955 và bà Võ Thị H, sinh năm 1958; có vợ là Hồ Thị L, sinh năm 1991; có 01 người con sinh năm 2011; tiền án: Không; tiền sự: 01 lần. Ngày 21/9/2017, bị Ủy ban nhân dân thị trấn M áp dụng biện pháp giáo dục tại thị trấn, thời hạn 03 tháng, từ ngày 21/9/2017 đến ngày 21/12/2017, chấp hành xong; quá trình nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, đi học đến lớp 4 nghỉ, lớn lên có vợ. Ngày 07/8/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong ngày 01/7/2008. Ngày 09/02/2012, bị Ủy ban nhân dân huyện C quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh do nghiện ma túy, thời hạn 24 tháng, từ ngày 03/02/2012 đến ngày 02/12/2013 chấp hành xong. Ngày 30/3/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng, từ ngày 31/12/2015 đến ngày 09/12/2016, chấp hành xong; bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/12/2018 đến nay; bị cáo có mặt.

B hi:

Nguyễn Thị Thanh K, sinh năm 1976; nơi cư trú: Ấp M, thị trấn L, huyện C, tỉnh An Giang; (Vắng mặt).

Lý Thanh T, sinh năm 1978; nơi cư trú: Ấp 1, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Tô Thị T1, sinh năm 1958; nơi cư trú: 421/12B L, phường K, quận H, Thành Phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

Người làm chứng:

Nguyễn Đức T2, sinh năm 1979; (Vắng mặt)

Nguyễn Thị T3, sinh năm 1972; (Vắng mặt)

Võ Thị H1, sinh năm 1958; (Vắng mặt)

Hồ Thị L, sinh năm 1991; (Có mặt)

Phan Văn H2, sinh năm 1974; (Vắng mặt)

Nguyễn Văn N3, sinh năm 1990; (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 30/12/2018, Đỗ Thanh P đi xe honda đò từ nhà thuộc ấp T, thị trấn M đến khu vực Cầu Mương Tịnh thuộc xã K, huyện C để chơi đá gà nhưng không có người chơi. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, P đi bộ về nhà. Khi đến ấp M, thị trấn L, P phát hiện xe mô tô biển số 67H8-9025 của Nguyễn Thị Thanh K đang dựng trước sân nhà, không người trông giữ, chìa khóa còn gắn trên ổ khóa xe, P lấy trộm xe mô tô trên chạy về nhà tháo dỡ 02 bửng chắn bùn, mặt nạ trước của xe để tránh bị phát hiện. K phát hiện bị mất trộm xe nên trình báo cơ quan Công an. Ngày 31/12/2018, hay tin sự việc trộm cắp bị phát hiện nên P đến Công an thị trấn M đầu thú, giao nộp xe mô tô biển số 67H8-9025

Quá trình điều tra, P còn khai nhận: Trước đó, khoảng 08 giờ ngày 09/12/2018, P đi bộ từ nhà đến khu vực Cồn Phước thuộc ấp M, xã A, huyện C để chơi đá gà. Khi đi đến ấp T, thị trấn M, P phát hiện xe mô tô biển số 52KA-4871 của Lý Thanh T đang dựng trước cửa hàng Năm Phan Bá, không người trông giữ, chìa khóa còn gắn trên ổ khóa xe, P lấy trộm xe mô tô trên chạy về nhà tháo biển số xe để tránh bị phát hiện. T trình báo sự việc bị mất trộm xe đến Công an thị trấn M. Cùng ngày, Công an thị trấn M phát hiện xe mô tô biển số 52KA-4871 trong nhà của P nên thu giữ, còn P lẩn trốn.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) xe mô tô biển số 52KA-4871 nhãn hiệu HONDA;

- 01 (một) xe mô tô biển số 67H8-9025, nhãn hiệu FANLIM, màu sơn xanh.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 04/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới:

- 01 (một) xe mô tô biển số 52KA-4871 nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, đã qua sử dụng, trị giá 2.040.000 đồng.

- 01 (một) xe mô tô biển số 67H8-9025, nhãn hiệu FANLIM, màu sơn xanh, đã qua sử dụng, trị giá 2.740.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản 4.780.000 đồng.

Ngày 06/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Mới khởi tố bị can Đỗ Thanh P để điều tra, xử lý.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 27 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Đỗ Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Quyết định truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Đỗ Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] . Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy hiệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt không gây cản trở cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận như nội dung Cáo trạng vừa công bố.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và những người làm chứng; phù hợp với các vật chứng bị thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô của chị K, anh Tu. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt tổng trị giá 4.780.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là hoàn toàn đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng về hành vi của bị cáo nhận thấy:

Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Để sở hữu được tài sản, người lao động phải trải qua quá trình lao động vất vả có thể qua nhiều thế hệ mới tạo lập được. Cho nên, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Bị cáo đang ở độ tuổi lao động, có đầy đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình. Lẽ ra, bị cáo phải rèn luyện bản thân thành một công dân có ích, tích cực lao động để tạo lập tài sản chính đáng cho bản thân và chăm lo phụ giúp gia đình, biết rõ những việc nên làm và không nên làm nhưng chỉ vì hám lợi, lười lao động, muốn nhanh chóng có được tài sản mà không phải tốn công sức lao động mà bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý của người dân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú về hành vi phạm tội trước đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ đã được Cơ quan điều tra giao trả lại cho bị hại là phù hợp nên không đề cập giải quyết.

[6]. Về hình phạt bổ sung, do bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xét đến.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử pht: Bị cáo Đỗ Thanh P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 31/12/2018.

Căn cứ các Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, min, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật t tụng hình sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Thời hạn kháng cáo của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;