Bản án 06/2024/DS-ST về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐNG THÁP

BẢN ÁN 06/2024/DS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 07 tháng 12 năm 2023 và ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 03/2023/TLST-DS ngày 09 tháng 01 năm 2023 về “tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 244/2023/QĐXX-ST ngày 01 tháng 11 năm 202 3 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 200/2023/QĐST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2023, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 41/2023/QĐST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2023 và Thông báo mở lại phiên tòa sơ thẩm số: 05/TB-TA ngày 19 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Mai Việt T, sinh năm: 1966; địa chỉ: số C đường P, xã P, huyện N, TP . (có mặt).

* Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Anh Trần Đình H, sinh năm: 1989; địa chỉ: số B, đường N, phường B, TP., tỉnh Đồng Tháp, là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 22/11/2022) (có mặt).

- Bị đơn: Ông Trịnh Phước T1, sinh năm: 1978; địa chỉ: số E, ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phan Thị Ú, sinh năm: 1980.

2. Chị Trịnh Thị Huỳnh N, sinh năm: 1996.

3. Anh Trinh Quốc V, sinh năm: 2000.

4. Anh Lê Hoàng V1, sinh năm: 1989.

Cùng địa chỉ: số E, ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.

* Người đại diện hợp pháp của bà Ú, chị N, anh V và anh V1 : Ông Trịnh Phước T1, sinh năm: 1978; địa chỉ: số E, ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 05/3/2024). (có mặt).

5. Anh Mai Tấn S, sinh năm: 1988; địa chỉ : số C đường P, xã P, huyện N, TP . (vắng mặt).

6. Bà Nguyễn Thu L, sinh năm: 1968 (có mặt).

7. Chị Mai Ngọc T2, sinh năm: 1997.

Cùng địa chỉ: số C đường P, xã P, huyện N, TP ..

* Người đại diện hợp pháp của bà L, chị T2: Anh Trần Đình H, sinh năm: 1989; địa chỉ: số B, đường N, phường B, TP ., tỉnh Đồng Tháp, là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 22/11/2022) (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 11 năm 2022 của ông Mai Việt T và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay anh Trần Đình H đại diện cho nguyên đơn cùng trình bày: Ông Mai Việt T có diện tích đất 982,3m2 (Đất ở tại nông thôn 300m2; đất trồng cây lâu năm 682,3m2), đo đạc thực tế là 802,9m2 (trong đó đất ở tại nông thôn là 300m2 và đất trồng cây lâu năm là 502,9m2) thuộc thửa 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại: Ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Phần đất này có nguồn gốc là của cha mẹ ông T là cụ Mai Văn Q, cụ Phạm Thị B tặng cho ông T vào khoảng năm 1990 đến năm 1993 thì ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 1034, tờ bản đồ số 4. Gia đình ông T sử dụng đất đến khoảng năm 2001 thì ông T cùng vợ con chuyển lên Thành phố Hồ Chí Minh thuê nhà ở trọ để thuận tiện cho công việc làm thuê. Sau đó, thì ông Trịnh Phước T1 là con bà Mai Thị C (bà c là con vợ trước của cụ Q), có hỏi ông T cho dựng tạm căn nhà cây trên đất để ở nhờ 01 năm và được ông T đồng ý (thỏa thuận bằng lời nói). Khoảng năm 2003, mẹ ông T là cụ Phạm Thị B được địa phương hỗ trợ xây dựng căn nhà tình thương nên ông T1 đã dỡ căn nhà tạm để trả lại đất cho ông T làm noi cất nhà tình thương cho cụ B. Sau khi cất nhà xong do ông T1 chưa có chỗ ở mới nên ông T đồng ý cho ông T1 được ở nhờ trong căn nhà này, trong thời gian chờ có nơi ở mới. Khoảng năm 2004, ông Tân r mẹ là cụ B về sống với ông T tại Thành phố Hồ Chí Minh (gia đình ông T ở trọ trên thành phố để đi làm thuê) để thuận tiện cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông T tiếp tục cho gia đình ông T1 được ở nhờ trong nhà với điều kiện khi nào ông T yêu cầu thì gia đình ông T1 phải trả lại đất thì ông T1 đồng ý. Vào năm 2011, ông T làm thủ tục cấp đổi lại giấy và được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 136994; số vào số cấp GCN: CH02994, đổi thửa 1034, tờ bản đồ số 4 thành thửa 19, tờ bản đồ số 76 cho hộ ông Mai Việt T vào ngày 05/9/2012. Việc làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ quan cấp giấy có tiến hành đo đạc nhưng phía gia đình ông T1 cũng không có ý kiến hay tranh chấp gì.

Đến đầu năm 2022, ông T có nói với ông T1 phải trả lại nhà, đất cho ông T để ông T về quê sinh sống, nhưng ông T1 không đồng ý nên ông T đã làm đơn tranh chấp gửi đến Ủy ban nhân dân xã T giải quyết buộc ông T1 trả lại nhà, đất. Tại buổi hòa giải ở xã ông T1 xin được ở lại thêm 10 năm nữa nếu có điều kiện thì sẽ di dời sớm nên ông T không đồng ý. Toàn bộ tài sản có trong nhà là của gia đình ông T1 còn nhà và đất là của gia đình ông T. Do đó, ông T yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò giải quyết buộc gia đình ông Trịnh Phước T1 cùng vợ con là bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N và anh Trịnh Quốc V2 và Lê Hoàng V1 trả lại diện tích đất qua đo đạc thực tế là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại: Ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, trên đất có 01 căn nhà cấp 4 là căn nhà tình thương được UBND xã cất cho mẹ của ông T, hiện nay căn nhà đã hết hạn sử dụng. Đồng thời yêu cầu gia đình ông T phải di dời toàn bộ tài sản có trong nhà đi nơi khác để giao nhà và đất cho ông T. Đối căn nhà vệ sinh mà gia đình ông T1 đã tự xây dựng trên đất vào năm 2021 mà không hỏi ý kiến của gia đình ông T thì gia đình ông T đồng ý hỗ trợ số tiền là 10.000.000 đồng, trường hợp gia đình ông T1 không đồng ý thì phải đập bỏ hoặc di dời. Đối với yêu cầu của gia đình ông T1 yêu cầu gia đình ông T phải có nghĩa vụ hỗ trợ tiền di dời tài sản thì phía ông T không đồng ý.

Phía ông T thống nhất theo biên bản thẩm định tại chỗ ngày 07/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò và sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L, không yêu cầu thẩm định lại. Về giá đất và tài sản có trên đất thì thống nhất giá do Hội đồng định giá đã định vào ngày 12/10/2023, phía ông T không yêu cầu Tòa án định giá lại tài sản đang tranh chấp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích đất tranh chấp hiện nay ông T đang giữ.

- Bị đơn ông Trịnh Phước T1 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Ú, chị N, anh V2, anh V1 trình bày: Phần diện tích đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L có nguồn gốc là của ông ngoại của ông T1 tên Mai Văn Q (chết năm 2011) và là cha ruột của ông T cho gia đình ông T1 ở từ khoảng năm 1997. Vợ chồng ông T1 đã đắp nền nhà để cất một căn nhà lá, cột cây nhưng không nhớ diện tích là bao nhiêu. Việc ông ngoại cho cất nhà ở thì không có làm giấy tờ gì và cũng không nói cho cất nhà diện tích là bao nhiêu nhưng có các ông cậu (con của ông ngoại) gồm Mai Văn N1, Mai Việt H1, Mai Văn K cũng đồng ý cho cất nhà. Còn gia đình ông T có biết việc cụ Q cho gia đình ông T1 cất nhà trên đất hay không thì ông T1 không biết. Sau khi cất nhà ở được một thời gian thì bà ngoại tên Phạm Thị B (mẹ của cậu T) xin qua ở với vợ chồng ông T1. Sau khi bà ngoại sống với vợ chồng ông T1 được khoảng 10 tháng thì UBND xã T và Ban nhân dân ấp xuống khảo sát thấy căn nhà bà ngoại đang ở với vợ chồng ông T1 đã xuống cấp, xiêu vẹo không ở được (vì khi cất nhà ông T1 mua lại nhà cũ của người khác) nên gia đình ông T1 đã dỡ căn nhà của ông T1 xuống để UBND xã cất cho bà ngoại một căn nhà tình thương, là căn nhà hiện nay gia đình ông T1 đang ở và đang tranh chấp, nhà cất năm nào thì không nhớ. Bà ngoại ở với vợ chồng ông T1 được khoảng 08, 09 năm thì bà ngoại lên Thành phố Hồ Chí Minh sống lại với cậu M Tân căn nhà này bà ngoại vẫn để cho vợ chồng ông T1 ở. Bà ngoại sống tại Thành phố được khoảng 03 năm thì bị bệnh, bệnh viện trả về nên cậu Mai Việt T nói đưa bà ngoại về ở cùng vợ chồng ông T1, vợ chồng ông T1 chăm sóc bà ngoại được khoảng 02 tháng sau thì bà ngoại chết (chết năm 2018). Như vậy, phần diện tích đất tranh chấp gia đình ông T1 đã ở từ năm 1997 cho đến nay. Còn căn nhà trên đất hiện nay là căn nhà mà UBND xã T cất cho bà ngoại Phạm Thị B1 chứ không phải cất cho gia đình ông T1. Việc ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi nào thì gia đình ông T1 không biết, từ trước đến nay ông T1 cứ tưởng phần đất này do ông ngoại Mai Văn Q đứng tên nên ông ngoại mới có quyền cho ông T1 cất nhà và khi ông T1 cất nhà ở phía ông T cũng không có ý kiến gì. Từ khi gia đình ông T1 cất nhà ở đến nay ông T1 cũng không có đi kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không có thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Gia đình ông T1 chỉ có duy nhất phần diện tích đất này để cất nhà ở nên ông T1 không đồng ý trả lại phần diện tích đất theo như yêu cầu của ông T mà yêu cầu được tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện tích đất này, ông T1 đồng ý trả giá trị đất cho phía ông T theo giá mà Hội đồng định giá đã định. Trường hợp phía ông T nhất quyết buộc gia đình ông T1 phải có nghĩa vụ di dời tài sản có trong nhà để trả nhà và đất thì yêu cầu ông T phải bồi thường chi phí xây dựng nhà vệ sinh và hỗ trợ cho gia đình ông T1 chi phí di dời. Tại phiên tòa ông T1 thay đổi yêu cầu là gia đình ông T1 chỉ yêu cầu gia đình ông T có nghĩa vụ trả giá trị nhà vệ sinh và hỗ trợ tiền di dời tài sản đi nơi khác tổng cộng là 50.000.000 đồng (tiền xây dựng nhà vệ sinh là 17.823.000 đồng, còn lại là chi phí di dời) thì gia đình ông T1 đồng ý di dời toàn bộ tài sản có trong nhà để giao lại nhà và đất cho ông T. Nếu không hỗ trợ thì không đồng ý di dời tài sản có trong nhà để trả lại đất và nhà cho gia đình ông T mà yêu cầu được tiếp tục ở cho đến khi nào có đất cất nhà khác.

Phía ông T1 thống nhất theo biên bản thẩm định tại chỗ ngày 07/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò và sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L, không yêu cầu thẩm định lại. Về giá đất và tài sản có trên đất thì thống nhất giá do Hội đồng định giá đã định vào ngày 12/10/2023, phía ông T1 không yêu cầu Tòa án định giá lại tài sản đang tranh chấp.

- Tại phiên toà sơ tham, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và Thư ký phiên toà từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự cũng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Xét thấy phần diện tích đất tranh chấp có diện tích là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76 có diện tích đất là 982,3m2 (Đất ở tại nông thôn 300m2; đất trồng cây lâu năm 682,3m2), đã được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Mai Việt T từ năm 1993 nên thuộc quyền quản lý sử dụng của hộ ông T. Phía ông T1 cho rằng phần đất tranh chấp đã được cụ Q cho gia đình ông T1 cất nhà ở từ năm 1997. Tuy nhiên, phần đất này ông T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1993 nên việc vào năm 1997 cụ Q cho gia đình ông T1 cất nhà ở là không đúng quy định của pháp luật vì thời điểm này cụ Q không có quyền của người sử dụng đất. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 16 Điều 3, Điều 166 và Điều 203 Luật đất đai xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc gia đình của bị đơn phải di dời toàn bộ tài sản có trong nhà để trả lại nhà và đất cho gia đình ông T.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn tại phiên tòa yêu cầu phía gia đình ông T phải có nghĩa vụ trả giá trị nhà vệ sinh và chi phí di dời đồ đạc trong nhà để trả đất và nhà cho gia đình ông T. Tại phiên tòa phía ông T1 yêu cầu tổng số tiền là 50.000.000 đồng. Xét thấy, căn nhà vệ sinh đã được xây dựng kiên cố không thể di dời được nên cần giao nhà vệ sinh cho gia đình ông T được sử dụng do đó gia đình ông T phải trả giá trị nhà vệ sinh theo giá mà hội đồng định giá đã định là 17.823.000 đồng là phù hợp. Còn chi phí di dời tài sản phía gia đình ông T không đồng ý và không phù hợp pháp luật nên không chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất ở nhờ qua đo đạc thực tế là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại: Ảp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, nên quan hệ tranh chấp được xác định là “tranh chấp Quyền sử dụng đất” . Phần diện tích đất tranh chấp tọa lạc tại huyện L do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò theo quy định tại khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Mai Tấn S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên.

[2] Xét yêu cầu của các đương sự thấy:

[2.1] Về nguồn gốc đất tranh chấp: Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận nguồn gốc đất đang tranh chấp có diện tích là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mai Việt T từ năm 1993 có nguồn gốc là của cụ Mai Văn Q và cụ Phạm Thị B1. Về tài sản có trên đất: Trên diện tích đất này có 01 căn nhà lắp ráp là căn nhà tình thương được UBND xã T cất cho cụ Phạm Thị B1 là mẹ ruột của ông T và là bà ngoại của ông T1. Ngoài ra, trên đất tranh chấp còn có một căn nhà vệ sinh do ông T1 xây dựng và toàn bộ đồ đạc có trong nhà là của gia đình ông T1. Đây là các tình tiết sự kiện không phải chứng minh.

[2.2] Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa các bên là do mỗi bên lý giải về việc quản lý, sử dụng diện tích đất nêu trên khác nhau. Phía ông T cho rằng trước đây ông T chỉ cho gia đình của ông T1 ở đậu (ở nhờ) trên phần diện tích đất này. Còn phía gia đình của ông T1 thì cho rằng phần diện tích đất này vào năm 1997, ông ngoại của ông T1 là cụ Mai Văn Q (cha của ông T) cho gia đình ông T1 cất nhà ở. Việc ông ngoại cho gia đình ông T1 cất nhà để ở hai bên chỉ trao đổi bằng lời nói chứ không lập thành văn bản. Ngoài lời trình bày này thì phía gia đình ông T1 không xuất trình được giấy tờ chứng minh về việc cụ Q hay gia đình ông T đã cho gia đình của ông T1 diện tích đất tranh chấp luôn hay chỉ là cho ở nhờ.

[2.3] Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự tại phiên toà ngày hôm nay thể hiện:

Vào ngày 01/7/1993, hộ ông Mai Việt T được Ủy ban nhân dân huyện T (nay là huyện L) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01156 QSDĐ/B1 đối với thửa đất số 1034, tờ bản đồ số 4 có diện tích 300m2 đất T và 700m2. Đến ngày 19/5/2011, hộ ông Mai Việt T làm thủ tục xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 05/9/2012, UBND huyện L cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Mai Việt T số giấy BH 136994, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH02994 theo đó thửa 1034, tờ bản đồ số 4 có diện tích 300m2 đất T và 700m2 đổi thành thửa 19, tờ bản đồ số 76 có diện tích 982,3m2, mục đích sử dụng là 300m2 đất ở tại nông thôn và 682,3m2 đất trồng cây lâu năm. Quá trình làm thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông T phía gia đình ông T1 không có tranh chấp.

Tại công văn số 129/UBND-NC ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Ủy ban nhân dân huyện L có ý kiến như sau: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mai Ngọc T3, về trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định tại thời điểm cấp giấy; cấp giấy cho ông T3 đúng đối tượng.

Như vậy, phần diện tích đất tranh chấp là của cha của ông T3 và là ông ngoại của ông T1 để lại cho ông T3 nên việc Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T3 là đúng đối tượng, có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[2.4] Phía ông T1 cũng thừa nhận phần diện tích đất đang có tranh chấp là của gia đình ông T3. Vào 1997, ông ngoại là Mai Văn Q có cho gia đình ông T1 phần đất này để cất nhà ở. Gia đình ông T1 đã cất nhà ở được một thời gian thì UBND xã T cho cụ B1 một căn nhà tình thương nên gia đình ông T1 đã dỡ căn nhà của ông T1 để Ủy ban cất nhà tình thương cho cụ B1 và gia đình ông T1 đã sống trong căn nhà của cụ B1 từ đó cho đến nay nhưng không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh là cụ Q đã cho gia đình ông T1 phần diện tích đất này. Hơn nữa, phần diện tích đất này ông T3 đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T3 vào năm 1993 đến năm 1997, cụ Q cho gia đình ông T1 cất nhà ở là không phù hợp vì thời điểm này đất đã thuộc quyền sử dụng của ông T3. Do đó, nếu có việc cụ Q cho vợ chồng ông T1 cất nhà thì cũng không phù hợp pháp luật vì thời điểm này cụ Q không có các quyền của người sử dụng đất.

Mặt khác, tại biên bản hòa giải của UBND xã T ngày 06/10/2022 ông T1 cũng thừa nhận phần diện tích đất tranh chấp là của ông T3 và xin được ở tiếp tục thêm 10 năm nữa, nếu ông T1 có điều kiện thì sẽ di dời nhà sớm.

Như vậy, có căn cứ xác định phần diện tích đất tranh chấp là của ông T3 được cha mẹ cho và hộ ông T3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1993 nên hộ ông T3 có các quyền của người sử dụng đất, được pháp luật bảo vệ. Còn T1 chỉ là những người ở nhờ trên đất của hộ ông T3. Do đó, ông T3 khởi kiện yêu cầu gia đình anh T1 phải có nghĩa vụ di dời toàn bộ tài sản có trong nhà để trả lại đất và nhà cho ông T3 là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên cần được chấp nhận.

[3] Về tài sản có trên đất:

[3.1] Trên phần diện tích đất tranh chấp có một căn nhà tiền chế được xây dựng vào năm 2003 có kích thước 4,8m x 9,4m, có kết cấu cột bê tông vuông cạnh 13cm, vách ván gỗ tạp, mái đòn tay sắt, lợp tôn sống vuông, nền lót gạch tàu. Nhà phụ (mái che), xây dựng năm 2003, kích thước 2,7m x 7,4m, kết cấu khung gỗ tạp, mái lợp tôn sóng tròn, nền gạch tàu, vách ván gỗ tạp. Ông T3 và gia đình ông T1 đều thừa nhận nhà được UBND xã T cất nhà tình thương cho cụ Phạm Thị B1 là mẹ của ông T3, bà ngoại của ông T1. Theo biên bản định giá ngày 12/10/2023 của Hội đồng định giá thì nhà đã hết giá trị khấu hao tài sản theo quy định. Như đã phân tích ở trên diện tích đất tranh chấp là thuộc quyền quản lý sử dụng của hộ gia đình ông Mai Việt T và căn nhà trên đất là được UBND xã cất cho mẹ của ông T và hiện nay đã hết giá trị sử dụng. Tại phiên tòa phía anh H đại diện cho ông T yêu cầu gia đình ông T1 phải di dời toàn bộ đồ đạc có trong nhà để giao trả căn nhà trên đất cho ông T được quản lý, sử dụng là phù hợp nên chấp nhận.

[3.2] Đối với căn nhà vệ sinh được gia đình ông T1 xây dựng năm 2021, kích thước 2m x 2,3m, kết cấu: làm hầm cầu tự hủy, vách tường bên trong dán gạch men cao 1,35m, còn lại tô xi măng, mái lợp tôn sóng vuông, nền lót gạch bông. Theo biên bản định giá ngày 12/10/2023 của Hội đồng định giá thì nhà vệ sinh có giá trị còn lại là 25.461.000đ x 10% x 07 năm = 17.823.000đ (Mười bảy triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng). Phía anh H đại diện cho ông T đồng ý hỗ trợ giá trị của nhà vệ sinh là 10.000.000 đồng, còn phía gia đình ông T1 yêu cầu nếu phải trả đất thì gia đình ông T1 phải có nghĩa vụ trả giá trị theo giá mà Hội đồng định giá đã định. Xét thấy: Tại phiên tòa ông T1 cũng thừa nhận việc gia đình ông T1 khi xây dựng nhà vệ sinh không hỏi ý kiến của gia đình ông T. Ông T1 cho rằng không hỏi ý kiến của ông T là do đang sử dụng đất và nghĩ là đất được gia đình ông T cho ở luôn nên xây nhà vệ sinh để sử dụng. Như vậy, việc gia đình ông T1 cất nhà vệ sinh trên đất của ông T và phần đất này thuộc quyền quản lý, sử dụng của hộ ông T là không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy căn nhà vệ sinh là xây dựng kiên cố không thể di dời được nên khi giao căn nhà trên đất cho gia đình ông T thì cần giao luôn căn nhà vệ sinh mà gia đình ông T1 đã làm cho gia đình ông T nhưng gia đình ông T phải có nghĩa vụ trả giá trị căn nhà vệ sinh cho gia đình ông T1 là 17.823.000 đồng là mới phù hợp. Do đó, chấp nhận yêu cầu này của gia đình ông T1.

[3.3] Đối với yêu cầu phản tố của gia đình ông T1 yêu cầu hỗ trợ tiền di dời tài sản ra khỏi phần đất tranh chấp là 32.177.000 đồng (50.000.000đ - 17.823.000đ). Xét thấy, việc hỗ trợ di dời tài sản của gia đình ông T1, phía gia đình ông T không đồng ý và không phù hợp pháp luật nên không chấp nhận.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn.

Buộc hộ gia đình ông Trịnh Phước T1 gồm: Ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải có trách nhiệm di dời toàn bộ tài sản có trong nhà để trả lại nhà và diện tích đất qua đo đạc thực tế là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại: Ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp để trả lại nhà và đất cho hộ ông T.

Hộ ông Mai Việt T gồm: Ông Mai Việt T, bà Nguyễn Thu L, anh Mai Tấn s và chị Mai Ngọc T2 có nghĩa vụ liên đới trả tiền giá trị nhà vệ sinh cho hộ ông Trịnh Phước T1 là 17.823.000đ (Mười bảy triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng).

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự đều thống nhất phần đất tranh chấp 156m2 mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm có giá là 135.000đ/m2. Như vậy, số tiền án phí được tính là 135.000đ/m2 x 156m2 = 21.060.000đ x 5% = 1.053.000đ (một triệu không trăm năm mươi ba nghìn đồng). Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên hộ gia đình ông T1 phải chịu toàn bộ. Ngoài ra yêu cầu phản tố của gia đình ông T1 chỉ được chấp nhận một phần nên gia đình ông T1 phải chịu án phí cho số tiền yêu cầu không được chấp nhận là 32.177.000 đồng (100.000.000d - 17.823.000đ) x 5% = 1.608.850 đồng (làm tròn 1.609.000 đồng). Do hộ gia đình của ông T phải có nghĩa vụ trả giá trị nhà vệ sinh cho hộ ông T1 với số tiền là 17.823.000đ (Mười bảy triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng) nên hộ gia đình ông T phải chịu án phí là 891.000đ (T4 trăm chín mươi mốt triệu đồng).

[6] về chi phí tố tụng: số tiền xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá là 3.494.000đ (Ba triệu bốn trăm chín mươi bốn nghìn đồng) ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải chịu. Số tiền này ông T đã nộp tạm ứng trước nên ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải nộp lại để trả cho ông T theo quy định tại điều 157, Điều 158, Điều 165 và Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 5; Điều 6; khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 157; Điều 158, Điều 165; Điều 166; Điều 227 và Điều 228; của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 166; Điều 168; Điều 357; khoản 2 Điều 468, Điều 579; Điều 580 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ vào khoản 16, Điều 3, Điều 166 và Điều 203 Luật đất đai.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 20/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Việt T. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Trịnh Phước T1.

1.1. Buộc hộ gia đình ông Trịnh Phước T1 gồm: Ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải có nghĩa vụ di dời toàn bộ tài sản có trong nhà để trả lại căn nhà và diện tích đất qua đo đạc thực tế là 156m2 trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M5, M6 về M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thuộc một phần thửa đất số 19, tờ bản đồ số 76, tọa lạc tại: Ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Mai Việt T vào ngày 05/9/2012.

1.2. Buộc hộ ông Mai Việt T gồm: Ông Mai Việt T, bà Nguyễn Thu L, anh Mai Tấn S và chị Mai Ngọc T2 có nghĩa vụ trả giá trị căn nhà vệ sinh cho hộ ông Trịnh Phước T1 là 17.823.000đ (Mười bảy triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 07/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò và sơ đồ đo đạc ngày 8 tháng 5 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện L).

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Buộc ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải có nghĩa vụ liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 2.662.000đ (Hai triệu sáu trăm sáu mươi hai nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông T1 đã nộp là 2.500.000 đồng theo biên lai thu nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003581 ngày 23 tháng 01 năm 2024. số tiền án phí mà ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 còn nộp tiếp là 162.000đ (Một trăm sáu mươi hai nghìn đồng).

3.2. Buộc ông Mai Việt T, bà Nguyễn Thu L, anh Mai Tấn S và chị Mai Ngọc T2 phải liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 891.000đ (T4 trăm chín mươi mốt nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp là 5.080.000đ (Năm triệu không trăm tám mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí đã nộp số 0016360 ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Chi cục thi hành án huyện Lấp Vò. Ông Mai Việt T còn được nhận lại số tiền chênh lệch là 4.189.000đ (Bốn triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng).

4. Về chi phí tố tụng: Ông Trịnh Phước T1, bà Phan Thị Ú, chị Trịnh Thị Huỳnh N, anh Trịnh Quốc V2 và anh Lê Hoàng V1 phải liên đới nộp số tiền xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 3.494.000đ (Ba triệu bốn trăm chín mươi bốn nghìn đồng) để trả lại cho ông Mai Việt T vì ông T đã nộp tạm ứng trước.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2024/DS-ST về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:06/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;