Bản án 06/2020/HS-ST ngày 17/01/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA, VŨNG TÀU

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 255/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020, đối với:

Bị cáo: Phạm Đình T, sinh năm 1991 tại Thanh Hóa. Hộ khẩu thường trú:

đường L, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Hùng D, mẹ: Bùi Thị N; Vợ: Phạm Thị Thảo T, có 1 người con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt ngày 21/01/2019. (có mặt)

Bị hại: Ông Đỗ Xuân B, sinh năm 1970. Địa chỉ: đường Đ, Phường 11, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trần Ngọc Anh K, sinh năm 1987. Địa chỉ: phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (có mặt) –

 Anh Phạm Văn V, sinh năm 1992. Địa chỉ: đường Đ, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

Người làm chứng:

- Bà Bùi Thị N, sinh năm 1950. Địa chỉ: đường Đ, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

- Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1963. Địa chỉ: đường Đ, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

- Ông Phạm Văn T, sinh năm 1957. Địa chỉ: đường Đ, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

- Anh Trần Nhật K, sinh năm 1981. Địa chỉ: đường L, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc Anh K là anh rể của Phạm Đình T (con bà Bùi Thị N). Vào khoảng 21 giờ 20 ngày 14/07/2018, K điều khiển xe ô tô biển số 79C-2510 đến và đỗ xe trước nhà bà Bùi Thị N ở số 126B/2/xx đường Đ, Phường M, thành phố V để vào nhà bà N xem bóng đá cùng với T và em họ của T là Phạm Văn V.

Khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, ông Đỗ Xuân B từ trong nhà đi ra khóa cổng thì thấy xe ô tô của K đang đỗ trong đường hẻm nên nói với K “mày đậu xe như này coi được không, sáng mai vợ tao không có lối đi chợ, mày đánh xe đi chỗ khác”. K cho biết, chỉ đỗ xe một lúc rồi đi luôn nhưng ông B không chấp nhận, vẫn yêu cầu K phải đưa xe ra khỏi đường hẻm. Sau khi cãi nhau qua lại, ông B đi về nhà (cách chỗ đỗ xe ô tô khoảng 30m) lấy 01 con dao rựa (theo lời khai ông B có đặc điểm: cán bằng gỗ, dài khoảng 40cm, phần lưỡi dao cong dài khoảng 30cm, bản dao rộng 04cm, dày khoảng 1cm). Ông B cầm dao bằng tay phải đi về phía K, thấy vậy bà N vào can ngăn nhưng bị ông B đẩy ra và xông vào vung dao bằng hai tay lên trên chém xuống về phía K. Theo phản xạ, K đưa tay trái lên đỡ và nắm vào phần lưỡi dao. Lúc này, T từ trong nhà nhìn ra thấy ông B dùng dao chém K nên chạy tới và giằng co lấy dao của ông B và chém nhiều nhát vào người ông B. Cùng lúc, K lấy 01 ghế nhựa cũ màu trắng gần đó, cao khoảng 50cm đánh theo hướng từ trên xuống vào người ông B.

Hậu quả ông B bị 01 vết thương ở trán, 01 vết thương ở cánh tay trái, 01 vết thương ở lưng và 01 vết thương ở ngón tay phải; Anh K bị 01 vết thương ở lòng bàn tay trái.

Quá trình điều tra T khai chém nhiều nhát về phía ông B nhưng chỉ nhớ chém trúng 1 nhát vào cánh tay trái và 1 nhát ở lưng còn vết thương ở trán và ngón tay của ông B có thể trong lúc giằng dao với ông B gây ra vết thương này.

Ông B khai bị T cầm dao loại tự chế (dài khoảng 1,4m) cán bằng ống tuýp sắt và V cầm dao phay dài khoảng 50cm chém ông B nhiều nhát. Trong đó T chém 1 nhát vào trán, 1 nhát vào lưng, riêng vết thương ở cánh tay trái do T chém (bút lục 110) nhưng nhiều lời khai khác thì cho rằng V chém.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa ông B với T, K, V thì T, V và K đều khai nhận chỉ có T là giật con dao của ông B chém gây thương tích cho ông B còn K dùng ghế nhựa không gây thương tích cho ông B, V không tham gia đánh ông B. Ngoài lời khai của ông B không có chứng cứ nào xác định V và K tham gia sử dụng hung khí gây thương tích cho ông B nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự đối với K và V.

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 261/TgT ngày 03/10/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của Trần Ngọc Anh K là 2%.

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 273/TgT ngày 15/10/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận:

- 01 vết thương vùng trán, mẻ xương trán, lành thương tốt.

- 01 vết thương cẳng tay trái, đứt cơ cánh tay quay, cơ duỗi cổ tay quay dài, ngắn, cơ duỗi chung các ngón, đã phẫu thuật cắt lọc khâu nối cơ đứt, nẹp bột cánh bàn tay, hiện tại vận động gập duỗi cổ tay hạn chế ít.

- 01 vết thương ngón I bàn tay phải, gãy chỏm đốt gần ngón I, mẻ xương đốt xa, được phẫu thuật kết hợp xương đốt gần, đính chỉ đốt xa, hiện tại cứng khớp, liên đốt ngón I bàn tay phải.

- 01 vết thương vùng lưng, đứt cơ, gãy cung xương sườn V-VI-VII và VIII bên phải, tràn máu màng phổi phải, đã phẫu thuật khâu cầm máu, khâu cơ, dẫn lưu màng phổi phải, hiện dày dính màng phổi dưới ¼ hai phế trường.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của ông Đỗ Xuân B là 43%.

* Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 127/TgT ngày 17/5/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh BR-VT kết luận: Các vết thương của ông B có cùng thuộc tính là “vết chém hay băm bổ” do loại hung khí “có diện rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động với lực mạnh” gây ra.

Trách nhiệm dân sự: Gia đình Phạm Đình T đã tự thỏa thuận và bồi thường cho ông Đỗ Xuân B. Ông B có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Phạm Đình T và có đơn đề nghị không khởi tố đối với V và K.

Bản cáo trạng số 178/CT-VKSTPVT ngày 26/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Phạm Đình T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo T khai nhận đã chém 01 nhát vào cánh tay và 01 nhát vào lưng của B; ngoài ra trong lúc giằng co có gây thương tích cho B ở trán và ngón tay phải hay không thì T không nhớ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện đi làm nuôi vợ và con còn nhỏ.

- Bị hại ông Đỗ Xuân B khai T dùng dao tự chế dài khoảng 1,4m chém vào trán và lưng mình; K dùng dao chém làm thương ở ngón tay phải; còn vết thương ở cánh tay là do V dùng dao phay dài 50cm chém. Đề nghị xử lý hành vi của V đã dùng dao chém vào cánh tay gây thương tích.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Anh K khai chỉ cầm ghế nhựa cũ đã bị mục đánh anh B theo hướng từ trên xuống nhưng không gây thương tích cho ông B.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, anh V khai thời điểm xảy ra xô xát anh đứng ở ngoài chứ không cầm dao tham gia đánh như lời khai của ông B. Ông B khai cũng không chính xác vì nếu là dao phay thì ngắn chứ không dài 50cm.

- Người làm chứng bà Bùi Thị N và Phạm Thị Đ khai có đứng gần đó do sợ nên quay đi chỗ khác, không trực tiếp chứng kiến ai gây thương tích cho ông B. Ông T và anh K khai không trực tiếp chứng kiến ai gây thương tích cho ông B, mà chỉ cùng T băng bó vết thương cho ông B rồi anh K đưa ông B đi cấp cứu.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ cho bị cáo nên xem xét giảm nhẹ xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù; Về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong. Đối với lời khai của bị hại cho rằng V dùng dao phay chém vào cánh tay trái và K dùng dao chém vào ngón tay phải là không có căn cứ nên không có cơ sở để xử lý hành vi này của V và K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với Kết luận giám định pháp y, của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Do có mâu thuẫn về việc Trần Ngọc Anh K đậu xe ô tô làm cản trở cho việc đi lại nên giữa ông Đỗ Văn B và anh Trần Ngọc Anh K có xảy ra xô xát với nhau nên vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/7/2018, Phạm Đình T thấy ông B dùng dao rựa cán dài khoảng 40cm, phần lưỡi dài khoảng 30cm, bản dao rộng 04cm, dày khoảng 01cm chém vào tay của Anh K nên T đã giật lấy con dao từ ông B chém nhiều nhát vào người ông B gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 43%. Như vậy, hành vi của Phạm Đình T dùng dao rựa được xác định là hung khí nguy hiểm chém gây thương tích cho bị hại nên đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù đã giằng được con dao từ ông B, nhưng bị cáo không khuyên can hai bên mà dùng chính con dao đó để gây thương tích cho ông B cho thấy xem thường pháp luật và sức khỏe của người khác. Do đó, cần phải xử phạt thật nghiêm nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại cũng có một phần lỗi dùng dao chém Anh K trước và cũng đã có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo; sau khi gây thương tích, bị cáo không bỏ mặc mà tích cực tham gia cứu thương cho bị hại; cha bị cáo là ông Phạm Hùng Dũng có công với cách mạng được Nhà nước tặng huy chương kháng chiến hạng 2 nên căn cứ điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự xem xét xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[5] Xử lý vật chứng: Do không thu hồi được vật chứng nên không xét đến.

[6] Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

[7] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về phần tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ phù hợp với các tình tiết có trong vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với lời khai của ông B cho rằng V dùng dao chém vào cánh tay ông B gây thương tích và yêu cầu xử lý đối với V. Tuy nhiên ngoài lời khai ông B, không có chứng cứ nào xác định V dùng dao gây thương tích cho ông B nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý đối với V là đúng.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Phạm Đình T 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 21/01/2019.

2. Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

3. Án phí: Bị cáo Phạm Đình T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghãi vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 17/01/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;