Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 435/2019/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trần Thị H - sinh năm 1995 (có mặt) Nguyên quán: xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Nội Xá, xã V, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội

* Bị đơn: Anh Phạm Trường G - sinh năm 1987 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã V, huyện Ư, TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, biên bản lấy lời khai chị Trần Thị H là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Phạm Trường G qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Khánh Hội, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình năm 2015. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Đặc biệt khoảng ba năm trở lại đây, chị phát hiện anh G nghiện ma túy. Chị cùng gia đình chồng đã khuyên bảo, động viên anh G rất nhiều, tìm mọi biện pháp để cai nghiện nhưng anh không cai được. Từ đó dẫn đến việc anh bỏ bê gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo toan kinh tế gia đình. Chị cố gắng nhẫn nhịn để mong vợ chồng có cuộc sống hạnh phúc nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng càng mâu thuẫn trầm trọng bấy nhiêu. Do đó, chị đã đưa con về ngoại sống ly thân với anh G từ tháng 10/2019. Trong thời gian sống ly thân, chị thỉnh thoảng vẫn cho con về thăm bố, thăm ông bà nội và cũng mong anh G thay đổi để vợ chồng đoàn tụ. Nhưng chị nhận thấy anh G không hề thay đổi, không tu chí làm ăn, vẫn không chịu khó cai nghiện nên chị xác định không thể quay về đoàn tụ, chị cương quyết xin ly hôn anh G. Về con chung, chị và anh G có 01 con chung là Phạm Bảo N – sinh ngày 31/8/2015. Hiện cháu đang ở với chị. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi cháu Nam và không yêu cầu anh G cấp dưỡng tiền nuôi con vì cháu còn nhỏ, hiện đang ở với chị; chị đang ở cùng với bố mẹ đẻ tại Khánh Hội, Yên Khánh, Ninh Bình và là nhân viên bán hàng nên hiện tại chị có chỗ ăn, ở ổn định, có thu nhập đảm bảo điều kiện để nuôi con; trong khi đó anh G thì nay việc này, mai việc khác lại còn nghiện ma túy; bản thân anh G đang ở cùng với bố mẹ; ông bà vẫn phải lo toan cho anh. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Anh Phạm Trường G là bị đơn không có quan điểm, ý kiến gì.

Ông Phạm Văn Uy là bố đẻ anh Phạm Trường G có ý kiến: Sau khi chị H và anh G kết hôn năm 2015 thì hai anh chị sinh con và sống, ăn chung với vợ chồng ông. Cuộc sống chung của hai anh chị diễn ra bình tH. Xong khoảng hai, ba năm nay gia đình phát hiện anh G nghiện ma túy đã tìm mọi cách, khuyên bảo nhiều lần nhưng anh G không cai nghiện được. Cũng từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và cuối năm 2019 thì chị H xin phép gia đình đưa con về ngoại ở. Từ đó hai vợ chồng sống ly thân, xong thỉnh thoảng chị H vẫn cho con về thăm ông bà. Gia đình không chê trách chị H điều gì. Đến nay chị có đơn xin ly hôn, bản thân ông là bố không muốn các con ly hôn, xong anh G không hề thay đổi nên ông đề nghị Tòa giải quyết cho chị H được ly hôn. Còn về con chung của chị H và anh G, thì hiện tại chị H nuôi con sẽ tốt hơn, xong trường hợp chị H không nuôi được thì mang cháu Nam về ông nuôi. Đối với các văn bản tố tụng của Tòa mà ông nhận thay, ông đều đã giao ngay luôn trong ngày cho anh G.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Phạm Trường G vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị Trần Thị H có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Phạm Trường G. Về con chung, giao cho chị H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phạm Bảo Nam – sinh ngày 31/8/2015; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh G cho đến khi có thay đổi khác. Chị H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Trần Thị H đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Phạm Trường G đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh G không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 23/3/2020 nhưng do sự vắng mặt của anh G nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh G vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Phạm Trường G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Khánh Hội, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình ngày 30/3/2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung; đặc biệt khoảng ba năm trở lại đây thì anh G nghiện ma túy, không tu chí làm ăn, thường xuyên chơi bời. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng đã sống ly thân một thời gian nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh G.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: cuộc sống chung giữa vợ chồng chị H và anh G hạnh phúc được một thời gian; xong từ khi anh G nghiện ma túy dẫn đến việc chơi bời, không tu chí làm ăn. Từ đó, mâu thuẫn vợ chồng liên tục xảy ra, cuối năm 2019 thì chị H đưa con về ngoại ở. Nay chị H có có đơn ly hôn và nguyện vong được nuôi con, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ cũng như quyền lợi, sự phát triển của trẻ em; giải quyết cho chị H được ly hôn anh G và được nuôi con.

Xét thấy cuộc sống giữa chị H và anh G mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Phạm Trường G có 01 con chung là Phạm Bảo N– sinh ngày 31/8/2015. Xét thấy, chị H có nguyện vọng nuôi con; bản thân chị là nhân viên bán hàng có thu nhập ổn định, hiện tại chị đang ở chung với bố mẹ tại xã Khánh Hội, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nên có chỗ ở ổn định. Anh G không có quan điểm, lại là người nghiện ma túy; hơn nữa cháu Phạm Bảo Nam còn nhỏ (hơn 4 tuổi) cần sự chăm sóc, giáo dục từ người mẹ nên giao chị H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nam là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu anh G cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh G cho đến khi có thay đổi khác; anh G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Trần Thị H không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết, anh G không có quan điểm, ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Trần Thị H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Trần Thị H được quyền ly hôn anh Phạm Trường G.

2. Về con chung: Giao chị Trần Thị H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phạm Bảo N – sinh ngày 31/8/2015; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh Phạm Trường G cho đến khi có thay đổi khác. Anh G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009453 ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;