TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY TIÊN - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với:
+ Bị cáo: Nguyễn Nghĩa S, sinh năm 1994; Nơi cư trú: thôn Điền X, xã Văn X, huyện Kim B, tỉnh Hà N; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q (đã chết) và bà Dương Thị Ng; vợ: Chu Thị Phương L; con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 31/12/2018 đến ngày 05/01/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn. Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Chu Thị Phương L, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn Điền X, xã Văn X, huyện Kim B, tỉnh Hà N; có mặt.
* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1990 (vắng mặt); Anh Đào Xuân Tr, sinh năm 1990 (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 30/12/2018 khi Nguyễn Nghĩa S đang ở nhà thì nhận được điện thoại có số đuôi 274 của người nam giới tên là Ngh nhà ở xã Nhật T, huyện Kim B, tỉnh Hà N gọi vào số điện thoại 0975745133 của S, rủ S cùng nhau góp tiền đi lên Phú X – Hà N mua pháo nổ về sử dụng. S đồng ý và thống nhất với Ngh mỗi người góp số tiền 2.000.000 đồng để đi mua pháo nổ. Sau đó, S một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu Airblade, sơn màu đỏ, BKS 90B2-718.98 đi ra gầm cầu vượt Đồng V đón Ngh. Khi gặp nhau, Ngh đưa cho Sơn số tiền 2.000.000 đồng để góp đi mua pháo nổ. Sau đó, S điều khiển xe mô tô BKS 90B2-718.98 chở Ngh đi lên khu vực Cầu G - Phú X – Hà N, gặp một người đàn ông (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) mặc áo mưa, đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang, đi xe kiểu Wave, không đeo biển kiểm soát. Tại đây, S đưa cho Ngh số tiền 4.000.000 đồng (Ngh góp 2.000.000 đồng, S góp 2.000.000 đồng) để Ngh mua pháo nổ của người nam giới này. Ngh cầm tiền S đưa rồi đưa cho người nam giới, sau đó nhận lại một bao tải dứa màu đen, có hai đường kẻ sọc màu vàng, bên trong có 06 hộp pháo hình chữ nhật, loại pháo dàn 36 quả và 03 hộp tròn pháo nổ rồi người nam giới này điều khiển xe đi về hướng Hà Nội. Sau khi mua được pháo, S và Ngh cho bao tải có chứa pháo nổ để lên khung xe mô tô BKS 90B2-718.98 rồi S điều khiển xe chở Ngh cùng bao tải có chứa pháo nổ để đi về nhà cất giấu. Khi đi đến cổng Khu công nghiệp Đồng V 2 thì bị tổ công tác của Công an huyện Duy Tiên phối hợp Công an xã Duy Minh phát hiện, thu giữ, niêm phong số pháo trên xe cùng toàn bộ vật chứng khác có liên quan và đưa Nguyễn Nghĩa S về trụ sở UBND xã Duy Minh lập biên bản theo quy định. Lợi dụng sơ hở, Ngh bỏ chạy thoát.
Vật chứng thu giữ, tạm giữ gồm: Thu trên khung xe mô tô BKS 90B2-718.98: 01 bao tải dứa màu đen, có hai đường kẻ sọc màu vàng, bên trong bao tải có chứa: 03 vật hình trụ tròn được bọc bên ngoài bằng nilon màu đỏ có ghi chữ nước ngoài có đường kính 27cm, cao 06cm, xác định tổng khối lượng là 3,6kg; 05 vật hình hộp chữ nhật được bọc bên ngoài bằng giấy màu đỏ có ghi chữ nước ngoài, kích thước (15x14x13)cm, bên trong mỗi hộp có 36 vật hình trụ tròn được kết dính với nhau, vỏ ngoài mồi hộp đều có một đoạn dây màu xanh, chiều dài 02cm và 01 vật hình hộp chữ nhật bị khuyết một góc kích thước (4,5x7,5)cm, được bọc bên ngoài bằng giấy màu đỏ có ghi chữ nước ngoài, trong hộp có 30 vật hình trụ tròn được kết dính với nhau, (Nguyễn Nghĩa S khai là pháo nổ), cân xác định có tổng khối lượng là 12,1 kg, được niêm phong trong bao tải dứa màu đen, có 02 đường kẻ sọc màu vàng, ký hiệu QT01. Thu trong túi quần phía trước bên phải của Nguyễn Nghĩa S đang mặc: Số tiền 1.840.000 đồng. Thu trong túi áo khoác bên phải của Nguyễn Nghĩa S đang mặc: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Huawei, vỏ màu đen, số IMEI1: 866222030530946; IMEI2: 866222030560950, bên trong máy có lắp 01 sim Viettel in dãy số 89840 04800 88120 39637, số thuê bao là 0975745133. Thu tại vị trí bắt giữ Nguyễn Nghĩa Sơn 01 xe mô tô Airblade, sơn màu đen đỏ, số máy: JF63E2132004, số khung: 6326HZ109847, BKS 90B2-718.98.
Ngoài ra quá trình điều tra, Nguyễn Nghĩa S đã tự giác giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 113880, cấp ngày 16/5/2018 cho xe mô tô BKS 90B2-718.98 mang tên Nguyễn Nghĩa S.
* Khám xét khẩn cấp khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Nguyễn Nghĩa S không thu giữ đồ vật, tài liệu gì .
+ Kết luận định giám định số 108/PC09 ngày 31/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên: “Mẫu vật trong niêm phong là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (Có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Có tổng khối lượng là 12,2 kg”.
Cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 30/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 điều 191; các điểm i, s khoản 1; khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 9 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 10,7kg pháo nổ được niêm phong trong bao tải; Trả lại cho bị cáo số tiền: 1.840.000đ. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại Huawei; 01 sim điện thoại; 01 xe môtô BKS 90B2-718.98 và đăng ký của xe.
Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng có quan điểm xin được trả lại một nửa trị giá của xe môtô, ngoài ra không có tranh luận gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Duy Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và các chức danh tư pháp đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22h00’ ngày 30/12/2018, tại khu công nghiệp Đồng Văn 2, thôn Ngọc Th, xã Duy, huyện Duy T, tỉnh Hà N, khi Nguyễn Nghĩa S đang tàng trữ trái phép 12,2 kg pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ thì bị lực lượng Công an huyện Duy Tiên phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật có liên quan.
[3] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm tới trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người đúng tội đúng pháp luật.
[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy: bị cáo có nhân thân tốt; không phải chịu tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có thân nhân có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1; khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ nhận định trên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo dưới sự giám sát của gia đình, xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo có hoàn cảnh khó khăn được địa phương xác nhận nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Trong vụ án này đối tượng tên là Ngh lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn, cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau; đối với người đàn ông đã bán pháo do không có đầy đủ thông tin nên không có cơ sở làm rõ.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 10,7kg pháo nổ được niêm phong trong bao tải là mẫu vật hoàn trả sau giám định là hàng cấm cần tịch thu tiêu hủy; Đối với số tiền 1.840.000đ thu giữ của bị cáo không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo. Đối với: 01 điện thoại Huawei; 01 sim điện thoại bị cáo sử dụng liên lạc mua pháo; 01 xe môtô BKS 90B2-718.98 và đăng ký của xe là tài sản riêng của bị cáo hình thành trước thời kỳ hôn nhân bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội vì vậy cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Lời tranh luận của bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chu Thị Phương L đề nghị trả lại một nửa giá trị của xe không được chấp nhận.
[7] Về án phí HSST: bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nghĩa S phạm tội "Tàng trữ hàng cấm".
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 191; điểm i, s khoản 1; khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Nghĩa S: 10 (Mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/2/2019).
Giao bị cáo Nguyễn Nghĩa S cho Ủy ban nhân dân xã Văn X, huyện Kim B, tỉnh Hà N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình p hạt của bản án mới.
2. Vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 10,7kg pháo nổ được niêm phong trong bao tải;
Trả lại cho bị cáo số tiền: 1.840.000đ (Một triệu tám trăm bốn mươi ngàn đồng). Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại Huawei; 01 sim điện thoại; 01 xe môtô BKS 90B2-718.98 và đăng ký của xe.
(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an huyện Duy Tiên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duy Tiên ngày 31/01/2019).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của quốc hội: bị cáo Nguyễn Nghĩa S phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Báo cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 06/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ hàng cấm
Số hiệu: | 06/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về