TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 06/2019/HS-PT NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI CHỨA CHẤP TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 21 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 153/2018/TLPT-HS ngày 07 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Tấn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2018/HS-ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Phú T.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tấn P, sinh năm 1986, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Khóm 7, thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P1 và bà Phạm Thị L; Vợ: Nguyễn Thị T và có 01 người con; tiền án: Tại Bản án số 32/2005/HSST ngày 28/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện Phú T xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt nhưng chấp hành về trách nhiệm dân sự nên chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra còn có 03 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị: Đoàn Hoàng B, Trần Thanh S và Dương Văn M (không triệu tập)
- Bị hại:
+ Bưu điện huyện Phú T, tỉnh Cà Mau. Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T, tỉnh Cà Mau (không triệu tập).
+ Ông Nguyễn Văn M1, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Khóm 2, thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T, tỉnh Cà Mau (không triệu tập).
+ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Khóm 2, thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T, tỉnh Cà Mau (không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ ngày 21/6/2018, Đoàn Hoàng B, Dương Văn M và Trần Thanh S đến Bưu điện huyện Phú T lấy trộm 10 cái cái áo thun hiệu New – Men; 01 máy tính xách tay hiệu Dell, 01 cặp xách, 01 chuột máy tính, 04 chai sữa tắm hiệu Thebol, 09 chai dầu gội hiệu Thebol, 01 biển số xe, 01 bộ váy. Các bị cáo đang xem tài sản trộm được thì bị lực lượng Công an thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T phát hiện các bị cáo để lại tài sản trộm được và bỏ chạy. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo trộm được là 11.106.057 đồng.
Sau khi bị khởi tố hành vi trộm tại Bưu điện huyện Phú T và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến ngày 12 tháng 7 năm 2018 các bị cáo Đoàn Hoàng B, Dương Văn M và Trần Thanh S tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà của anh Nguyễn Văn M1 thuộc Khóm 2, thị trấn Cái Đôi V, huyện Phú T, tỉnh Cà Mau gồm: 02 máy tính xách tay hiệu HP, 01 cái cặp.
Sau khi lấy trộm được tài sản thì đem về nhà B. Trên đường đi sợ bị phát hiện nên B, S đi đến nhà của bà Nguyễn Thị H ở cùng Khóm 2, phát hiện 01 chiếc xe đạp nên lấy trộm chiếc xe cho M chạy về nhà của B. Về đến nhà của B thì các bị cáo mở tài sản trộm được ra xem lúc này có Nguyễn Tấn P và P biết toàn bộ tài sản này do B, S, M trộm được mà có nên P lấy 02 cái máy tính xách tay. Bị cáo P lấy 01 cái màu xám đem về nhà của P, 01 cái P đưa cho bà Lê Thị T (dì ruột của B) với mục đích giấu dùm cho B, S, M. Tổng tài sản các bị cáo trộm của anh M1 và bàị H có giá là 13.377.320 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HS-ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Phú T quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.
Tuyên xử: Các bị cáo Đoàn Hoàng B, Trần Thanh S, Dương Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Hoàng B, Trần Thanh S, Dương Văn M, án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật quy định.
Ngày 19 tháng 11 năm 2018, bị cáo Nguyễn Tấn P có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình điều tra cũng như tại các phiên tòa sơ phúc thẩm, Nguyễn Tấn P thừa nhận: Vào ngày 12 tháng 7 năm 2018, Đoàn Hoàng B, Dương Văn M và Trần Thanh S lấy trộm tài sản của anh Nguyễn Văn M1 đem về nhà của B thì có P ở nhà B. Lúc B lấy máy tính mở máy lên xem thì P cũng có xem và biết rõ là tài sản này do B, M và S trộm cắp mà có.
Khoảng 18 giờ ngày 12 tháng 7 năm 2018, P quay lại nhà B thì thấy 02 máy tính xách tay còn để ở nhà B nên bị cáo lấy 01 cái máy tính màu xám đem về nhà, 01 cái bị cáo đưa cho bà Lê Thị T (dì ruột của B) với mục đích giấu dùm cho B, S, M.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo Đoàn Hoàng B, Dương Văn M và Trần Thanh S; phù hợp với lời khai của bà Lê Thị T.
Tại Kết luận giám định số 19/KL – HĐĐG ngày 19/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú T, kết luận: 02 máy tính xách tay hiệu HP có màu xám và màu đen bạc có tổng giá trị tài sản còn lại là 13.338.950 đồng.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HS-ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Phú T xét xử bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp trật tự quản lý nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có; gây ảnh hưởng đến việc điều tra phát hiện tội phạm, tạo điều kiện cho những người khác vấn thân vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Phú T xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến nay chưa được xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Do đó, án sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới nên kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
[4]. Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị nên không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điêu 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HS-ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Phú T;
Áp dụng: Khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn P 09 (chín) tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù được tính kể từ ngày chấp hành án.
Về án phí:
Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo P phải nộp 200.000 đồng. Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo P phải nộp 200.000 đồng.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2019/HS-PT ngày 21/01/2019 về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 06/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về