TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 06/2017/DS-ST NGÀY 11/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2017/TLST - DS ngày 05 tháng 4 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2017/QĐXXST - DS ngày 26 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (tên viết tắt: Ngân hàng V)
Trụ sở: Tầng 1-7, tòa nhà T, số 72, phố T, phường T1, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị H, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: Nhà số 60, đường L, phường L1, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc là đại diện theo ủy quyền lại (Theo các văn bản ủy quyền số: 06/2017/UQ-CT ngày 08 tháng 02 năm 2017 và văn bản ủy quyền số: 938/2017/UQ-GĐK-TDTD ngày 20 tháng 02 năm 2017), (Có mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1987
Nơi cư trú: Tổ 7, phường T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc, (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 02 năm 2017 của nguyên đơn và những lời khai tiếp theo người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (tên viết tắt: Ngân hàng V) là bà Lê Thị H trình bày:
Ngày 14 tháng 7 năm 2014, anh Nguyễn Đức T có ký Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng Thương mại Cổ phần V – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh để vay số tiền 30.000.000đồng, mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Ngân hàng V đã đồng ý và cho anh T vay tổng số tiền 30.000.000đồng. Theo thỏa thuận giữa Ngân hàng V và anh Nguyễn Đức T thì lãi suất của khoản vay trên là 35%/năm, tức 2,92% tháng; trả nợ theo phương thức trả chậm trong vòng 24 tháng (24 kỳ trả nợ). Tổng số tiền anh Nguyễn Đức T phải thanh toán cho Ngân hàng V trong vòng 24 tháng bao gồm cả gốc và lãi là 42.186.000đồng, cụ thể trong 23 tháng đầu mỗi tháng anh T phải trả cho Ngân hàng V số tiền 1.756.000đồng, tháng cuối cùng trả 1.798.000đồng, kỳ thanh toán là vào ngày 01 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 01 tháng 9 năm 2014. Sau khi ký Hợp đồng tín dụng, anh Nguyễn Đức T đã nhận đủ số tiền vay. Khi đến kỳ trả nợ, anh T đã trả cho Ngân hàng V được 01 lần với tổng số tiền đã trả là 7.720.000đồng, gồm 6.815.833đồng tiền gốc và 904.167đồng tiền lãi. Kể từ ngày 21 tháng 12 năm 2015 đến nay, anh T không trả cho Ngân hàng V thêm bất kỳ khoản nào khác. Vì vậy, Ngân hàng V yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Đức T phải hoàn trả toàn bộ khoản nợ tính đến ngày Ngân hàng khởi kiện (ngày 20 tháng 02 năm 2017) là 34.582.872đồng, trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng, nợ lãi là 11.398.705đồng. Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải Ngân hàng V còn yêu cầu anh T phải trả khoản tiền lãi tính từ ngày 21 tháng 02 năm 2017) cho đến ngày Tòa án xét xử. Nhưng tại phiên tòa Ngân hàng V tự nguyện không yêu cầu anh T phải trả số tiền lãi từ ngày 21 tháng 02 năm 2017 cho đến ngày xét xử (ngày 11 tháng 8 năm 2017), đồng thời về nghĩa vụ chậm thanh toán của anh Toàn, VP Bank cũng tự nguyện đề nghị Tòa án tính theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, mà không tính theo lãi suất của Hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết.
Bị đơn anh Nguyễn Đức T tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 28 tháng 04 năm 2017 và biên bản hòa giải anh T trình bày: Anh thừa nhận ngày 14 tháng 7 năm 2014 anh đã làm Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng V, số tiền vay, lãi suất vay, thời hạn vay, mục đích vay, phương thức thanh toán và số tiền anh đã thanh toán và số tiền anh còn nợ đúng như đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày. Nay Ngân hàng V khởi kiện anh hoàn toàn nhất trí trả nợ cho Ngân hàng V là 34.582.872đồng, trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng, nợ lãi là 11.398.705đồng. Tuy nhiên anh đề nghị Ngân hàng V cho anh được trả dần tiền gốc và lãi mỗi tháng là 2.000.000đồng, kể từ tháng 6 năm 2017 cho đến khi trả hết nợ gốc và lãi, lãi tính đến ngày 20/02/2017; còn khoản tiền lãi tính từ ngày 21/02/2017 đến ngày xét xử đề nghị Ngân hàng V miễn cho anh.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa xét xử đã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 95 Luật các Tổ chức Tín dụng; các điều 463, 466, 468, 470 và 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần V, anh T phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V tổng số tiền là: là 34.582.872đồng (Ba mươi tư triệu năm trăm tám mươi hai nghìn tám trăm bảy hai đồng) trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng (Hai mươi ba triệu một trăm tám tư nghìn một trăm sáu bảy đồng), nợ lãi là 11.398.705đồng (Mười một triệu ba trăm chín mươi tám nghìn bảy trăm linh năm đồng) và lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật.
Án phí: Anh Nguyễn Đức T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (tên viết tắt: Ngân hàng V) là Doanh nghiệp hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần do Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp, được thực hiện các hoạt động trung gian tiền tệ (Kinh doanh ngân hàng, Kinh doanh ngoại tệ và làm dịch vụ Ngân hàng bằng ngoại tệ...) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 2014 giữa Ngân hàng V- Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Đức T có địa chỉ tại tổ 7, phường T, thị xã Phúc Yên đã ký kết Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng số: 20140728-120066-0003 về việc Ngân hàng V cho anh T vay số tiền 30.000.000đồng với mục đích tiêu dùng. Do anh T vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận trong Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng ngày 14 tháng 7 năm 2014 và được quy định tại khoản 3.2 Điều 3 trong Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ. Vì vậy quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” trong lĩnh vực tín dụng và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập bị đơn anh Nguyễn Đức T tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn cố tình vắng mặt. Vì vậy, Toà tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Về nội dung vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận ngày 14 tháng 7 năm 2014 nguyên đơn với bị đơn đã ký Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng số 20140728-120066-0003 và ngày 30/7/2014 được nguyên đơn đồng ý phê duyệt, khoản vay; số tiền nguyên đơn cho bị đơn vay là 30.000.000đồng, bị đơn đã nhận đủ số tiền vay ngày 30 tháng 7 năm 2014, lãi suất vay là 35%/năm, tức 2,29%/tháng, thời hạn vay là 24 tháng, phương thức thanh toán là ngày 01 hàng tháng, trong 23 tháng đầu mỗi tháng anh T phải trả cho Ngân hàng V số tiền 1.756.000đồng, tháng cuối cùng trả 1.798.000đồng. Bị đơn anh T đã trả cho Ngân hàng V được 01 lần với tổng số tiền đã trả là 7.720.000đồng, gồm 6.815.833đồng tiền gốc và 904.167đồng tiền lãi. Kể từ ngày 21 tháng 12 năm 2015 đến nay bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn, tính đến ngày 20 tháng 02 năm 2017 thì bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 34.582.872đồng, trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng, nợ lãi là 11.398.705đồng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự đây là sự thật khách quan, Hội đồng xét xử công nhận nội dung trên.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền gốc và lãi tính đến ngày 20 tháng 02 năm 2017, nhưng xin trả dần mỗi tháng 2000.000đ từ tháng 6/2017 cho đến khi trả hết nợ gốc và lãi. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu của bị đơn, mà yêu cầu bị đơn trả ngay số tiền 34.582.872đồng, đồng ý không tính lãi kể từ ngày 21 tháng 02 năm 2017 cho đến ngày Tòa án xét xử và tự nguyện điều chỉnh lãi suất đối với nghĩa vụ chậm thanh toán của bị đơn theo lãi suất quy định của Bộ luật dân sự.
Vì vậy cần buộc bị đơn có trách nhiệm trả nợ cho nguyên đơn tổng số tiền là 34.582.872đồng, trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng, nợ lãi là 11.398.705đồng.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 34.582.872đồng x 5% = 1.729.000đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 95 Luật các Tổ chức Tín dụng; các điều 463, 466, 468, 470 và 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Buộc anh Nguyễn Đức T có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V tổng số tiền là: là 34.582.872đồng (Ba mươi tư triệu năm trăm tám mươi hai nghìn tám trăm bảy hai đồng) trong đó nợ gốc là 23.184.167đồng (Hai mươi ba triệu một trăm tám tư nghìn một trăm sáu bảy đồng), nợ lãi là 11.398.705đồng (Mười một triệu ba trăm chín mươi tám nghìn bảy trăm linh năm đồng).
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Đức T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.729.000đồng (Một triệu bảy trăm hai mươi chín nghìn đồng). Ngân hàng Thương mại Cổ phần V được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 860.000đồng (Tám trăm sáu mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2014/0003233 ngày 30 tháng 3 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phúc Yên.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Ngân hàng Thương mại Cổ phần V có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Nguyễn Đức T chưa thanh toán được số tiền nêu trên, thì hàng tháng anh T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 06/2017/DS-ST ngày 11/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 06/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về