Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 24 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2020/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 01 năm 2020 “Ve việc tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Huỳnh Thị Mỹ D, sinh năm: 1984 “có mặt”.

Cư trú tại: ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: anh Huỳnh Văn U, sinh năm: 1982 “vắng mặt”.

Cư trú tại: ấp S, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 01 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Huỳnh Thị Mỹ D trình bày:

- Về hôn nhân: chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U tự nguyện tổ chức lễ cưới vào tháng 10 năm 2003, nhưng anh chị không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu chị D và anh U chung sống hạnh phúc, đến tháng 7 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên cuộc sống không còn hạnh phúc. Chị D và anh U sống ly thân từ tháng 6 năm 2019 cho đến nay. Chị D yêu cầu tuyên bố không công nhận chị D và anh U là vợ chồng.

- Về con chung: trong thời gian chung sống chị D và anh U có 02 người con chung tên Huỳnh Quốc B, sinh ngày 10/4/2004 và Huỳnh Thị Mỹ V, sinh ngày 11/8/2005. Hiện nay cháu B và cháu V đang sống chung với anh U, nên chị D thống nhất cho anh U tiếp tục nuôi dưỡng cháu B và cháu V cho đến khi cháu B và cháu V thành niên, chị D sẽ không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: trong thời gian chung sống chị D và anh U không có tài sản chung, nên chị D không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: trong thời gian chung sống chị D và anh U không có nợ chung, nên chị D không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

* Bị đơn là anh Huỳnh Văn U đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, nên anh U đã biết được yêu cầu của chị D, nhưng anh U không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị D.

Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung đã ban hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời triệu tập anh Huỳnh Văn U tham gia phiên họp hai lần hợp lệ, nhưng anh U vắng mặt không có lý do và anh U cũng không cung cấp lời khai cho Tòa án.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mỹ D. về hôn nhân: tuyên bố không công nhận chị D và anh U là vợ chồng; về con chung: giao 02 cháu Huỳnh Quốc B và Huỳnh Thị Mỹ V cho anh U trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu B và cháu V thành niên, do anh U không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con, nên chị D không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: chị D và anh U không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 01 năm 2020 của chị Huỳnh Thị Mỹ D thì chị D khởi kiện yêu cầu tuyên bố không công nhận chị D và anh U là vợ chồng. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là Hôn nhân và gia đình theo khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Anh Huỳnh Văn U là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh U.

[2] về quan hệ hôn nhân: chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U tự nguyện tổ chức lễ cưới vào tháng 10 năm 2003, nhưng từ đó đến nay anh chị không có đăng ký kết hôn.

Xét thấy: chị D và anh U tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng khi đã đủ tuổi kết hôn và đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng anh chị không đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Tại phiên tòa chị D yêu cầu tuyên bố không công nhận chị D và anh U là vợ chồng là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; anh U không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị D, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D, xử tuyên bố không công nhận chị D và anh U là vợ chồng.

[3] Về con chung: trong thời gian chung sống chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U có 02 người con chung tên Huỳnh Quốc B, sinh ngày 10/4/2004 và Huỳnh Thị Mỹ V, sinh ngày 11/8/2005. Từ khi chị D và anh U sống ly thân cho đến nay anh U trực tiếp nuôi dưỡng cháu B và cháu V. Chị D yêu cầu giao cháu B và cháu V cho anh U trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu B và cháu V thành niên, chị D sẽ không cấp dưỡng nuôi con; anh U không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị D; nguyện vọng của cháu B và cháu V cũng muốn được tiếp tục sống chung với anh U.

Xét thấy: từ khi chị D và anh U sống ly thân cho đến nay anh U là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu B và cháu V, hiện nay cháu B và cháu V đang có cuộc sống ổn định; nguyện vọng của cháu B và cháu V cũng muốn được tiếp tục sống chung với anh U; tại biên bản xác minh của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, ông Huỳnh Văn C là cha ruột của anh U trình bày: anh U có thu nhập ổn định, nên đảm bảo việc nuôi cháu B và cháu V cho đến khi cháu B và cháu V thành niên. Vì vậy, việc chị D yêu cầu giao cháu B và cháu V cho anh U trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu B và cháu V, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu B và cháu V, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao cháu B và cháu V cho anh U trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu B và cháu V thành niên. Do anh U không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con, nên chị D không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị D, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: trong thời gian chung sống chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U không có tài sản chung. Chị D và anh U không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: trong thời gian chung sống chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U không có nợ chung. Chị D và anh U không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Đối với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D. Như đã nhận định ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung là có cơ sở và phù hợp pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc chị Huỳnh Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng chị D được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009725 ngày 07 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, như vậy chị D đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm; anh Huỳnh Văn U không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo bản án: áp dụng Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Mỹ D.

1. Về hôn nhân: tuyên bố không công nhận chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U là vợ chồng.

2. Về con chung: giao 02 cháu Huỳnh Quốc B, sinh ngày 10/4/2004 và Huỳnh Thị Mỹ V, sinh ngày 11/8/2005 cho anh Huỳnh Văn U trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu B và cháu V thành niên. Chị Huỳnh Thị Mỹ D không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị D, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: chị Huỳnh Thị Mỹ D và anh Huỳnh Văn U không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Huỳnh Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng chị D được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009725 ngày 07 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, như vậy chị D đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm; anh Huỳnh Văn U không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo bản án: nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mỹ D có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị đơn anh Huỳnh Văn U không có mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:05/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;