Bản án 05/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 26/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:59/2017/HSST ngày 29/11/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HS ngày 05/01/2018 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Danh Vũ L, sinh năm: 1994, tại huyện G, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú và nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp H, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Khmer; Con ông Danh H1 (chết) và bà Danh Thị K; Có vợ tên Huỳnh Thị Diễm T (không đăng ký kết hôn); Tiền án: Bản án số 40/2011/HSST ngày 11/5/2011Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 năm tù giam  về tội “Cướp tài sản”. Ngày 19/8/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xét xử phúc thẩm bản án số 104/2011/HSPT giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án số 487/2015/HSST ngày 24/8/2015 Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam; Tiền sự: Không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 20/9/2017 “có mặt”.

2. Bị cáo Nguyễn Dương C, sinh ngày 16/8/2001, tại huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú và nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã HN, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị C1; Tiền án: Không; Tiền sự:

Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2017 cho đến ngày 20/9/2017được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú “có mặt”.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Dương C: Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm: 1968 và bà Dương Thị C1, sinh năm: 1974 (cha và mẹ ruột bị cáo) “có đơn đề nghị xét xử vắng mặt”.

Cùng cư trú: ấp P, xã HN, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai.

Người bào chữa cho các bị cáo Danh Vũ L và Nguyễn Dương C: Bà Cao Thị Tố Q là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kiên Giang “có mặt”.

Nơi cư trú: k1, thị trấn G, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

Bị hại: Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm: 1976 “có mặt”. Nơi cư trú: ấp H, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Người làm chứng:

Ông Trần Minh H3, sinh năm: 1978 “có đơn đề nghị xét xử vắng mặt”.

Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm: 1982 “có đơn đề nghị xét xử vắng mặt”.

Cùng cư trú: ấp H, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ, ngày 11 tháng 9 năm 2017 Danh Vũ L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60N4-4468 chở Nguyễn Dương C chạy xung quanh khu vực ấp H, xã N, huyện G để tìm mua gà, khi chạy ngang nhà ông Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Dương C phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 68G1-119.66 đậu trước nhà, chìa khóa còn trong ổ khóa xe, không có người trông giữ. Do đó, Nguyễn Dương C nảy sinh ý định trộm xe nên nói với Danh Vũ L và L đồng ý, L điều khiển xe quay lại gần nhà ông S, C đi vào dẫn xe ra và lên xe chạy đến đoạn gần cầu Hai Đông thuộc ấp H, xã N, huyện G thì bị người dân và lực lượng Công an bắt quả tang.

Ngày 20 tháng 9 năm 2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Danh Vũ L và Nguyễn Dương C.

Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên là đúng. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị cáo khai quanh co nhằm bao che cho nhau, không thành khẩn khai báo.

Đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Danh Vũ L và bị cáo Nguyễn Dương C đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tại chứng thư thẩm định giá số: 53/TĐG-CT/HĐĐG ngày 14/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản đã kết luận như sau: Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu đỏ-đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 68G1-119.66 trị giá 11.100.000đ (mười một triệu một trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của chứng thư thẩm định giá nêu trên.

Vật chứng trong vụ án: Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave, màu xanh, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 60N4-4468, số máy VD6ZS152FNH- H60000217, số khung RNDDCHUND51; Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 68G1-119.66.

Bản cáo trạng số 65/KSĐT-KT ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Danh Vũ L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, khoản 2, Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, truy tố bị cáo Nguyễn Dương C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

-Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 138, điểm g, khoản 1, Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Danh Vũ L từ 30 đến 36 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

-Áp dụng khoản 1, Điều 138, điểm g - h, khoản 1, Điều 46, Điều 69, Điều 73 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Nguyễn Dương C từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội trộm cắp tài sản.

Về xử lý vật chứng:

Ghi nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G đã trả cho bị hại ông Nguyễn Ngọc S một xe mô tô biển kiểm soát 68G1-119.66; Đề nghị tịch thu sung qũy một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave, màu xanh, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 60N4-4468, số máy VD6ZS152FNH-H60000217, số khung RNDDCHUND51.

Phần bồi thường dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét.

Người bào chữa cho các bị cáo thống nhất với bản cáo trạng của Viện kiểm sát về việc truy tố bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 138 của Bộ luật hình sự, truy tố bị cáo C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự và thống nhất với ý kiến của

Kiểm sát viên về việc cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như Kiểm sát viên đề nghị. Mặc dù tại phiên tòa các bị cáo khai quanh co nhưng quá trình điều tra các bị cáo đều thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi sai phạm của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cho các bị cáo. Riêng bị cáo L là người dân tộc, học vấn thấp nên trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ bị cáo bị tai nạn lao động, bị cáo là lao động chính. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2, Điều 46 và áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đối với bị cáo C đề nghị áp dụng mức thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cụ thể 12 tháng cải tạo không giam giữ cũng tương xứng với hành vi của bị cáo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Biết hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G- Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và bị hại không có yêu cầu hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa bị cáo Danh Vũ L khai nhận: Khoảng 10 giờ, ngày 11 tháng 9 năm 2017 bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60N4-4468 chở bị cáo C chạy xung quanh khu vực ấp H, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang để tìm mua gà, khi chạy ngang nhà ông S, bị cáo C phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 68G1-119.66 đậu trước nhà, chìa khóa còn trong ổ khóa xe, không có người trông giữ, bị cáo C rủ bị cáo lấy trộm nhưng bị cáo phản đối, không đồng ý,chạy được một đoạn cách nhà ông S vài trăm mét do đường cùng nên bị cáo điều khiển xe quay lại đến nhà ông S thì bị cáo C tự ý nhảy xuống xe đi vào nhà ông S trộm xe chứ bị cáo không hay biết.

Bị cáo C khai nhận: Thừa nhận lời trình bày của bị cáo L là đúng, bị cáo có rủ bị cáo L trộm xe nhưng L không đồng ý, việc thực hiện hành vi trộm cắp do một mình bị cáo thực hiện. Sau khi trộm được xe bị cáo điều khiển được mộtđoạn thì cả hai cùng bị bắt giữ.

Bị hại là ông Nguyễn Ngọc S xác định đoạn đường nhà ông có lộ đất xe máy chạy bình thường không có đường cùng như các bị cáo khai, tại thời điểm các bị cáo trộm xe vợ ông đang ở nhà chứ không phải không có người quản lý, khi phát hiện bị cáo lấy xe vợ ông đã tri hô. Do không biết đường chạy nên các bị cáo bị bắt. Ông xác định xe mô tô biển kiểm soát 68G1-119.66 là của ông và hiện nay đã nhận lại. Về dân sự ông không yêu cầu, về trách nhiệm hình sự ông yêu cầu xử lý theo quy định pháp luật.

Mặc dù tại phiên tòa bị cáo C thừa nhận toàn bộ hành vi nhằm bao che cho bị cáo L. Riêng bị cáo L không thừa nhận hành vi giúp sức của mình nhưng qua các lời khai tại Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên công bố các bị cáo thừa nhận khai đúng, không bị ép cung về cơ bản lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, kết luận định giá và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: Tội trộm cắp tài sản.

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

Đối chiếu hành vi trên của các bị cáo với quy định của Bộ luật hình sự đã đủ căn cứ kết luận: Bị cáo L và bị cáo C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố bị cáo L và bị cáo C với tội danh và Điều luật được diễn dẫn nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy:

Bị cáo C là người phát hiện tài sản của người khác không có người quản lý, trông coi nên đã nảy sinh ý định lấy trộm, chủ động rủ bị cáo L và khi được bị cáo L đồng ý bị cáo là người trực tiếp vào lấy tài sản. Do đó, bị cáo là người chủ mưu vừa là người thực hiện tội phạm. Bị cáo L bị rủ rê và đồng ý thực hiện tội phạm nên bị cáo là đồng phạm trong vụ án. Chẳng những không khuyên can bị cáo C, mà còn giúp sức tích cực. Vì vậy, đây là vụ án có đồng phạm mang tính chất giản đơn, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia.

Hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, cần thiết phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy:

Bị cáo L đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản” vào năm 2011. Ngày 24/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Lẽ ra, sau khi chấp hành án xong bị cáo phải xem đó là bài học có ích cho bản thân để trở thành người công dân có ích cho xã hội, nhưng bị cáo lại xem thường pháp luật tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Bị cáo C là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niêm phạm tội.

 [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo chưa gây thiệt hại. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo C phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét lập luận của người bào chữa yêu cầu Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p, khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo L yêu cầu Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2, Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi lẽ, tại phiên tòa các bị cáo luôn khai quanh co. Riêng bị cáo L mặc dù là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế nhưng đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản” vào năm 2011. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào năm 2015. Do đó, không thể nói bị cáo nhận thức pháp luật hạn chếđược. Mặt khác, cho rằng bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính nhưng bị cáo không có gì để chứng minh.

 [4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Ghi nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G đã trả cho bị hại ông Nguyễn Ngọc Sáng một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 68G1-119.66.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 60N4-4468 các bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và đăng thông báo trên đài phát thanh truyền hình để tìm chủ sở hữu đến nay đã hết thời hạn thông báo nhưng không ai đến nhận. Do đó, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave, màu xanh, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 60N4-4468, số máy VD6ZS152FNH-H60000217, số khung RNDDCHUND51.

 [5] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét.

 [6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Danh Vũ L và bị cáo Nguyễn Dương C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Danh Vũ L và bị cáo Nguyễn Dương C phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 138, điểm g, khoản 1, Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Danh Vũ L: 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Áp dụng khoản 1, Điều 138, điểm g - h, khoản 1, Điều 46, Điều 31, Điều 69, Điều 73 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Dương C: 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Nhưng được khấu trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 11/9/2017 cho đến ngày 19/9/2017 cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã HN, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục.

Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã HN, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm2003, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Ghi nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G đã trả cho bị hại ông Nguyễn Ngọc S một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 68G1-119.66.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave, màu xanh, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 60N4-4468, số máy VD6ZS152FNH-H60000217, số khung RNDDCHUND51 (Cơ quan cảnh sátđiều tra Công an huyện G đang giữ).

3/ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Danh Vũ L và bị cáo Nguyễn Dương C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo, người bào chữa và bị hại biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/01/2018. Người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;