TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 04/2024/DS-PT NGÀY 04/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Hôm nay, ngày 04 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 249/2023/TLPT-DS ngày 09/10/2023 về Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 407/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Tố L, sinh năm 1983;
Địa chỉ: Số nhà 136A, đường Hùng Vương, Khóm 1, Phường 2, thành phố S, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Nguyễn Thị D, sinh năm 1980;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị D là: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974. Cùng địa chỉ: Số nhà 88/13D, Khóm 2, Phường 2, thành phố S, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/5/2021).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1974;
Địa chỉ: Số nhà 88/13D, Khóm 2, Phường 2, thành phố S, tỉnh Đ.
2. Nguyễn Thành L, sinh năm 1977;
Địa chỉ: Số nhà 88/13D, Khóm 2, Phường 2, thành phố S, tỉnh Đ.
3. Trương Vĩnh T, sinh năm 1972 (Vắng mặt);
4. Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1983 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số nhà 72/2, ấp Tân Lập, xã Tân Quy Tây, thành phố S, tỉnh Đ.
5. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982 (Vắng mặt);
6. Nguyễn Thị Thùy O, sinh năm 1982 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số nhà 204, khóm Tân An, phường An Hòa, thành phố S, tỉnh Đ.
7. Ủy ban nhân dân thành phố S;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Thanh S - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S. Địa chỉ: Số 530A, đường Nguyễn Sinh Sắc, Khóm 5, Phường 1, thành phố S, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 03/10/2023, xin vắng mặt).
8. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng Hưng. Địa chỉ: Số 32, Quốc lộ 30, xã An Bình, huyện C, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 23/10/2023, xin vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Tố L là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn bà Nguyễn Tố L1 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 216, tờ bản đồ số 12, diện tích 99,6m2 (Đo đạc thực tế 98,5m2) tại Phường 2, thành phố S mà bà đang tranh chấp với bà Nguyễn Thị D là do bà nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Thùy O theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/02/2020. Khi chuyển nhượng không có đo đạc. Đến ngày 11/3/2020, bà được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng trên đất có căn nhà tole, vách lá nhưng không có người quản lý, sử dụng.
Do chưa có nhu cầu nên sau khi nhận chuyển nhượng bà không có quản lý, sử dụng nhà, đất mà để trống. Tháng 8/2020 bà tiến hành xây dựng nhà nên có yêu cầu địa chính đến đo đạc để xác định ranh đất thì phát hiện gia đình bà D đang ở căn nhà trên phần đất mà bà đã nhận chuyển nhượng nên phát sinh tranh chấp.
Vì vậy, bà yêu cầu gia đình bà D phải di dời toàn bộ tài sản để trả lại cho bà 98,5m2 đất trong phạm vi các mốc M1 – M2 – M3 – M4 –M5 – M1 thuộc thửa 216 tờ bản đồ 12 do bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà đồng ý hỗ trợ chi phí di dời cho bà D số tiền là 50.000.000đ.
Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/02/2020 giữa bà với ông Đ, bà O vô hiệu, bà cũng không tranh chấp yêu cầu gì đối với ông Đ, bà O. Không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu mà để các bên tự thỏa thuận. Nếu có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác. Bà cũng không đồng ý nhận thửa đất 214 mà bà D cho rằng là thửa đất của ông L. Hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà đang quản lý và không có thế chấp cho ai.
- Bị đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:
Phần đất tranh chấp thuộc thửa 216 tờ bản đồ 12 là của cụ Nguyễn Thành L (Cha bà D) cho bà quản lý sử dụng từ năm 2011, diện tích ngang 5m, dài 20m, có làm giấy tờ tặng cho đất vào ngày 23/8/2015 nhưng không có xác nhận của cơ quan thẩm quyền, có người làm chứng là ông Nguyễn Thanh T (anh bà D, đã chết). Sau khi được cụ L cho đất, bà đã xây dựng nhà kết cấu mái tole, cột cây ở cho đến nay. Đến năm 2016, bà làm đơn đề nghị xác nhận chỗ ở hợp pháp, phía cụ L cũng xác nhận đồng ý cho bà cất nhà ở trên phần đất này.
Ngày 20/01/2017, cụ L đến Phòng công chứng số X, tỉnh Đ lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà cụ L đã cho bà phần đất bà cất nhà ở từ năm 2011, vị trí phần đất mà cụ L cho bà là thửa 216. Tuy nhiên, khi lập hợp đồng tặng cho lại ghi thành thửa đất số 214, tờ bản đồ 12 diện tích 110,1m2. Ngày 20/02/2017, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chỉnh lý trang 3). Trước khi tặng cho không có đo đạc nên trong quá trình lập hợp đồng tặng cho đến khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà không biết phần đất bà đang trực tiếp quản lý sử dụng thuộc thửa 216, do ông Nguyễn Thành L đứng tên. Còn phần đất ông L đang trực tiếp sử dụng lại do bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 214. Nguồn gốc thửa đất 214 cũng là của cụ Nguyễn Thành L cho ông L sử dụng từ năm 2014. Sau đó, ông L xây nhà kết cấu khung gỗ, vách tole, tường gạch, mái tole, khung trần sử dụng đến nay.
Bà xác định, từ khi được cha mẹ cho đất thì giữa bà và ông L không có đổi đất, đổi nhà. Đến năm 2016 thì sửa chữa lại kết cấu cũng vách tole, cột gỗ thao lao và xây dựng thêm một phòng ngủ diện tích ngang 3m dài 6m, kết cấu xây gạch bên ngoài không tô, bên trong có ốp gạch. Gia đình bà gồm có bà D, ông H và 02 con sống ổn định trên phần đất này từ năm 2011 đến nay, không thời gian nào bỏ địa phương đi, cũng không có đi làm ăn ở đâu xa và quá trình sử dụng đất không có ai tranh chấp. Do đó, bà không đồng ý di dời nhà trả đất theo yêu cầu của bà L1.
Đồng thời, bà yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/9/2017 giữa ông Nguyễn Thành L với ông Trương Vĩnh T1; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/01/2018 giữa ông Trương Vĩnh T1, bà Nguyễn Thị Ngọc B (vợ ông T1) với ông Nguyễn Văn Đ; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 21/02/2020 giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị Thùy O (vợ ông Đ) với bà Nguyễn Tố L1 là vô hiệu. Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp cho bà Nguyễn Tố L1 ngày 11/3/2020 đối với thửa số 216, tờ bản đồ số 12 để cấp lại cho bà.
Đối với thửa đất số 214 tờ bản đồ số 12 do bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hiện ông L đang quản lý). Bà đồng ý trả lại quyền sử dụng đất cho ông L do bị cấp nhầm thửa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên:
+ Ông Nguyễn Văn H (chồng bà D) trình bày:
Ông thống nhất theo lời trình bày của bà D về nguồn gốc đất tranh chấp, quá trình quản lý sử dụng cũng như ý kiến của bà D. Đề nghị Tòa án không chấp nhấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L1.
+ Ông Nguyễn Thành L trình bày:
Năm 2014, cụ L có cho ông phần đất để cất nhà ở. Đến ngày 20/01/2017, cụ L đến Phòng công chứng lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định. Ngày 24/02/2017, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 216 tờ bản đồ 12 (hiện bà D đang sử dụng). Tuy nhiên, trong quá trình lập thủ tục tặng cho đã có sự nhẫm lẫn về thửa đất. Thửa 214, tờ bản đồ 12 cụ L cho ông nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cấp cho bà D. Còn thửa 216 tờ bản đồ 12 cụ L cho bà D nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cấp cho ông.
Năm 2017, ông có vay của ông Trương Vĩnh T1 số tiền 100.000.000đ, để đảm bảo cho khoản vay này ông có thế chấp quyền sử dụng đất thuộc thửa 216 cho ông T1 bằng hình thức làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 01/9/2017. Hai bên có thỏa thuận miệng khi nào ông có điều kiện thì ông T1 sẽ cho ông chuộc lại đất. Vì vậy, ông không có giao đất cho ông T1 mà vẫn trực tiếp quản lý, sử dụng đất cho đến nay.
Sau đó, ông T1 chuyển nhượng thửa 216 lại cho ông Nguyễn Văn Đ, rồi ông Đ chuyển nhượng tiếp cho bà Nguyễn Tố L1. Việc chuyển nhượng đất sau này giữa ông T1 với ông Đ, ông Đ với bà L1, ông không biết. Ông xác định thửa đất ông thế chấp cho ông T1 để đảm bảo cho việc vay tiền là thửa đất nơi vị trí căn nhà của ông hiện nay đang ở.
Quá trình quản lý, sử dụng đất ông không biết vị trí phần đất ông đang sử dụng thuộc thửa 214 do bà D đứng tên và vị trí phần đất bà D đang sử dụng thuộc thửa 216 do ông đứng tên. Từ khi được cụ L phân chia đất, ông và bà D đã sử dụng đúng vị trí đất được cha cho, các bên cũng không có thỏa thuận gì về việc chuyển đổi vị trí đất.
Việc tranh chấp giữa bà L1 và bà D, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, ông không có ý kiến gì. Đối với thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa ông L với ông T1, ông không có tranh chấp yêu cầu gì.
Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông với ông T1 vô hiệu ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, để các bên tự thỏa thuận, nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
+ Ông Trương Vĩnh T1 trình bày:
Khoảng năm 2017, ông có nhận chuyển nhượng của ông L một phần đất (Không nhớ số thửa), giá chuyển nhượng là 60.000.000đ. Khi nhận chuyển nhượng ông L có dẫn ông đến xem đất thì trên đất có căn nhà tole (nhà có ai ở không thì ông T1 không biết). Vị trí đất nơi chuyển nhượng phía trước nhà có lối đi nhỏ bằng đường đất, cặp đường đi có con mương nhưng thời gian lâu ông không còn nhớ chính xác. Việc chuyển nhượng không có đo đạc, không có bàn giao mốc nhưng vị trí chuyển nhượng ông L chỉ trên đất có căn nhà tole. Sau đó, ông đã chuyển nhượng lại phần đất trên cho ông Đ với giá 100.000.000đ. Khi chuyển nhượng cho ông Đ cũng không có tiến hành đo đạc, lúc này căn nhà trên đất chuyển nhượng vẫn còn.
Việc ông L trình bày vay của ông 100.000.000đ, để đảm bảo cho khoản vay này ông L có thế chấp quyền sử dụng đất thuộc thửa 216 do ông L đứng tên cho ông bằng hình thức làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 01/9/2017 và hai bên có thỏa thuận miệng khi nào ông L có điều kiện thì ông sẽ cho ông L chuộc lại đất là không đúng sự thật.
Việc tranh chấp giữa bà L1 với bà D, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, ông không có ý kiến gì. Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng giữa ông L với ông vô hiệu do đất chuyển nhượng sai vị trí, phía ông cũng không có yêu cầu gì đối với ông L, không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, để các bên tự thỏa thuận, nếu có phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông, bà B với ông Đ, nếu bị vô hiệu do đất chuyển nhượng sai vị trí. Trường hợp, ông Đ có tranh chấp yêu cầu thì ông đồng ý trả lại cho ông Đ số tiền chuyển nhượng đã nhận là 100.000.000đ và tiền lãi phát sinh theo quy định pháp luật tính từ ngày chuyển nhượng cho đến khi xét xử.
+ Bà Nguyễn Thị Ngọc B (Vợ ông Trương Vĩnh T1) trình bày:
Bà có biết việc ông T1 nhận chuyển nhượng đất của ông L ở Phường 2, thành phố S. Sau đó, ông T1 và bà đã chuyển nhượng thửa đất trên lại cho ông Đ. Việc mua bán chuyển nhượng do ông T1 trực tiếp thỏa thuận nên bà không biết rõ vị trí đất chuyển nhượng. Trong vụ kiện tranh chấp giữa bà L1 và bà D đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định, bà không có ý kiến hay tranh chấp gì.
+ Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Thùy O (Vợ ông Đ) trình bày:
Khoảng năm 2017, ông Đ có nhận chuyển nhượng của ông Trương Vĩnh T1 phần đất diện tích khoảng 100m2 (ngang 5m, dài 20m, không nhớ số thửa), với giá 100.000.000đ. Khi chuyển nhượng không có đo đạc, nhưng trước khi nhận chuyển nhượng thì ông T1 có dẫn ông Đ đến xem hiện trạng phần đất chuyển nhượng. Vị trí thửa đất có cạnh giáp với mương B Chi, trên đất có căn nhà vách lá, mái tole, nhà hoang không có người sử dụng. Sau khi nhận chuyển nhượng ông Đ cũng không có sử dụng đất. Đến năm 2020, ông Đ và bà O chuyển nhượng lại phần đất trên cho bà Nguyễn Tố L1 giá khoảng 300.000.000đ. Khi chuyển nhượng địa chính có đo đạc hay không thì ông Đ và bà O không nhớ. Sau đó, ông Đ, bà O cũng đã giao đất cho bà L1 quản lý, sử dụng.
Ông Đ, bà O xác định phần đất ông Đ, bà O chuyển nhượng cho bà L1 là nơi vị trí các bên đang tranh chấp hiện nay (thuộc thửa 216). Do đó, ông Đ và bà O đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L1, buộc bà D di dời tài sản trả đất cho bà L1 sử dụng.
Trường hợp việc chuyển nhượng đất giữa các bên bị vô hiệu do sai vị trí, phía ông Đ, bà O cũng không có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, để các bên tự thỏa thuận, nếu có phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác. Đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đ, bà O với bà L1, do trong vụ án này phía bà L1 không có yêu cầu gì đối với ông Đ và bà O nên, ông Đ, bà O không có ý kiến.
+ Ủy ban nhân dân thành phố S trình bày:
Ủy ban thành phố S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 216 tờ bản đồ 12 cho ông L và 214 tờ bản đồ 12 cho bà D trên cơ sở hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 20/02/2017 giữa hộ Nguyễn Thành L và ông L, bà D được Phòng Công chứng số X chứng thực. Trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L và bà D không có tiến hành đo đạc thực tế. Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L và bà D là đúng theo quy định pháp luật tại thời điểm cấp. Việc bà D cho rằng UBND thành phố S cấp nhầm thửa đất cho ông L và bà D, Ủy ban đề nghị Tòa án căn cứ vào hồ sơ pháp lý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xem xét.
+ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ trình bày:
Ngày 28/8/2018, ông Đ được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất 216, tờ bản đồ 12, diện tích 99,6m2.
Ngày 21/02/2020, ông Đ xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Tố L1 tại thửa đất 216, tờ bản đồ 12, diện tích 99,6m2 và được Phòng Công chứng số X, tỉnh Đ công chứng. Ngày 11/3/2020, bà L1 được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L1 là do chuyển nhượng từ ông Đ trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng, chứng nhận phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố S đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Tố L1 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bị đơn bà Nguyễn Thị D.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị D về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/9/2017 giữa ông Nguyễn Thành L và ông Trương Vĩnh T1; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/01/2018 giữa ông Trương Vĩnh T1, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Văn Đ và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 21/02/2020 giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị Thùy O và bà Nguyễn Tố L1 vô hiệu.
3. Công nhận sự thỏa thuận của bà Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Thanh L về việc thỏa thuận giao trả quyền sử dụng đất.
- Buộc bà Nguyễn Tố L1 giao trả cho bà Nguyễn Thị D quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 216 tờ bản đồ 12 diện tích 99,6m2 (đo đạc thực tế là 98,5m2), thể hiện tại các mốc 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 1 theo sơ đồ đo đạc ngày 31/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S, đất tọa lạc tại Phường 2, thành phố S (hiện bà Nguyễn Thị D đang quản lý).
- Bà Nguyễn Thị D trả lại quyền sử dụng thửa đất 214 tờ bản đồ 12, diện tích 110,1m2 (diện tích đo đạc thực tế là 112,3m2) thể hiện tại các mốc 6 – 7 – 8 – 9 – 10 – 11 – 12 – 6, theo sơ đồ đo đạc ngày 31/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S, đất tọa lạc tại Phường 2, thành phố S, do bà Nguyễn Thị D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh L (hiện ông L đang quản lý, sử dụng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/6/2023 bà Nguyễn Tố L1 làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm. Bác yêu cầu phản tố của bị đơn. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L1, buộc bà D di dời toàn bộ tài sản có trên đất, trả đất cho bà L1 quản lý sử dụng diện tích thực tế là 98,5m2, thể hiện tại các mốc M1 – M2 – M3 – M4 – M5 – M1, thuộc thửa 216, tờ bản đồ số 12 do bà L1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Tố L1 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:
+ Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Tố L1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 04/01/2024 bà Nguyễn Tố L1 xác định không ủy quyền cho ông Trần Tấn Thái mà để bà tự tham gia trình bày tại phiên tòa. Vì vậy, ông Thái không còn là người đại diện của bà L1 tại phiên tòa phúc thẩm.
- Về nội dung:
[1] Nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ L thuộc một phần thửa 147, tờ bản đồ số 12. Năm 2011 cụ L cho con là bà D một phần có diện tích ngang 5m, dài 20m để cất nhà ở. Đến ngày 23/8/2015 vợ chồng cụ Nguyễn Thành L và Nguyễn Thị N làm “Giấy tặng cho đất” có nội dung cho bà D dài 20m, rộng 5m, diện tích 100m2 thuộc một phần thửa 147, tờ bản đồ số 12. Năm 2016, bà D làm “Đơn đề nghị xác nhận chỗ ở hợp pháp” được cụ L xác nhận đồng ý cho bà D cất nhà ở trên phần đất này và có xác nhận của UBND Phường 2, thành phố S vào ngày 29/02/2016.
Đến 29/11/2016, cụ L làm thủ tục tách thửa đất số 147 thành 05 thửa gồm: Thửa 214, 215, 216, 217 và 218 cùng tờ bản đồ 12 để làm thủ tục tặng cho các con mỗi người một phần, tương ứng với vị trí mà cụ L đã cho từng người cất nhà ở trên đất trước đó.
[2] Căn cứ vào công văn số 1541/VPĐKĐĐ-TPSaDec ngày 29/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố S thì tại sơ đồ vị trí tách thửa để tặng cho Quyền sử dụng đất cho các con có chữ ký của ông L “do đương sự tự vẽ” thể hiện trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ cụ L ngày 26/02/2015 có ghi vị trí đất cụ thể của từng người được tặng cho từ ô số 1 đến 5. Trong đó, vị trí của bà D được cho là ô số 2 tương ứng với thửa đất 216 nơi vị trí phần đất và căn nhà của bà D đã được cụ L cho sử dụng từ năm 2011. Vị trí của ông Nguyễn Thành L là ô số 4 tương ứng thửa 214. Ngày 20/01/2017, cụ L, bà D và ông L đến Phòng công chứng số X, tỉnh Đ để làm thủ tục tặng cho theo quy định. Tuy nhiên, phần đất bà D được cho lại ghi thành thửa 214, còn phần đất ông L được cho lại ghi thành thửa 216. Đến ngày 20/02/2017, bà D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 24/02/2017, ông L được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Chỉnh lý trang 3).
[3] Tháng 9/2017, ông L chuyển nhượng thửa đất 216 cho ông Trương Vĩnh T1. Ông L xác định tại thời điểm chuyển nhượng, ông L cũng không biết phần đất ông L đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện bà D đang quản lý sử dụng cho đến khi có tranh chấp. Ngày 15/01/2018, ông T1 tiếp tục chuyển nhượng lại cho ông Đ và bà O. Đến ngày 01/02/2018 ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Chỉnh lý trang 4). Sau đó, ông Đ làm thủ tục cấp đổi và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 28/8/2018. Đến ngày 21/02/2020, ông Đ và bà O chuyển nhượng thửa đất trên cho bà Nguyễn Tố L1. Ngày 11/3/2020, bà L1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nhận chuyển nhượng bà L1 không có trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Hơn nữa, quá trình chuyển nhượng không có tiến hành đo đạc, giao nhận đất nên các bên cũng không phát hiện có sự nhầm lẫn, sai thông tin số thửa trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trên thực tế từ khi được cho đất đến nay bà D và ông L sử dụng đúng vị trí phần đất được cụ L tặng cho. Từ trước đến nay, gia đình bà D gồm chồng (Ông H) và 02 con vẫn sống ổn định tại căn nhà trên, không có thời gian nào bỏ địa phương đi sinh sống ở nơi khác.
[4] Về phía bà L1 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông T1, ông Đ cho rằng sau khi nhận chuyển nhượng các bên đã giao nhận đất (Ông L đã giao đất cho ông T1, ông T1 đã giao đất cho ông Đ và ông Đ đã giao đất cho bà L1 quản lý) và tại thời điểm chuyển nhượng trên đất có căn nhà tole, vách lá nhưng nhà bỏ hoang, không có người sử dụng là không có căn cứ. Bởi vì, căn cứ vào lời khai của người làm chứng xung quanh cho biết trước đây bà D sống chung với cha mẹ. Sau khi được cụ L cho đất bà D đã cất nhà ở riêng. Phần đất mà cụ L cho bà D là nơi vị trí căn nhà của bà D đang ở hiện nay. Bà D không có ở nhà của ông L và ông L cũng không có ở nhà của bà D. Như vậy, lời trình bày của người làm chứng hoàn toàn phù hợp với lời khai của bà D.
Ngoài ra, cán bộ Địa chính Phường 2 cho biết khi cụ L làm thủ tục tách thửa đất 147 thành 05 thửa đất để làm thủ tục tặng cho các con, cụ L có đề nghị địa chính Phường 2 đến kiểm tra hiện trạng đất để làm thủ tục tách thửa. Lúc này trên đất có căn nhà của gia đình bà D đang sinh sống. Bên cạnh đó, hộ khẩu số 88/13D, Khóm 2, Phường 2, thành phố S của bà D hiện nay cũng ngay tại vị trí phần đất đang tranh chấp. Chứng tỏ gia đình bà D đã cất nhà và sử dụng ổn định từ năm 2011 đến nay.
Từ đó, cho thấy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có sự nhẫm lẫn về đối tượng vị trí, thông tin thửa đất. Ngoài ra, các bên cũng không có giao đất cho nhau, việc chuyển nhượng chỉ thực hiện trên mặt pháp lý, thực tế phần đất tranh chấp từ trước đến nay do bà D vẫn trực tiếp quản lý, sử dụng. Hơn nữa, đối tượng của hợp đồng này là quyền sử dụng đất nhưng trên đất có căn nhà của bà D nhưng khi các đương sự chuyển nhượng cũng không có thỏa thuận gì đối với căn nhà nên giao dịch chuyển nhượng đất giữa các bên là vô hiệu do nhầm lẫn và có đối tượng không thực hiện được. Ngoài ra, các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu mà để các bên tự thỏa thuận. Do đó, sau này nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu của bà L1 là có căn cứ. Tại Tòa án cấp phúc thẩm bà L1 cũng không cung cấp được chứng cứ nào mới để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ nên không chấp nhận.
[5] Xét ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Tố L1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Tố L1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bà L1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, Điều 148, Điều 91, Điều 157, Điều 165, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 106, Điều 166, Điều 203 Luật đất đai; Điều 122, Điều 126, Điều 408 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Tố L1.
2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố S.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Tố L1 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bị đơn bà Nguyễn Thị D.
4. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị D về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
5. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/9/2017 giữa ông Nguyễn Thành L và ông Trương Vĩnh T1; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/01/2018 giữa ông Trương Vĩnh T1, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Văn Đ và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 21/02/2020 giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị Thùy O và bà Nguyễn Tố L1 là vô hiệu.
6. Công nhận sự thỏa thuận của bà Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Thanh L về việc thỏa thuận giao trả quyền sử dụng đất.
7. Buộc bà Nguyễn Tố L1 giao trả cho bà Nguyễn Thị D quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 216 tờ bản đồ 12 diện tích 99,6m2 (Đo đạc thực tế là 98,5m2), thể hiện tại các mốc 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 1 theo Sơ đồ đo đạc ngày 31/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S, đất tại Phường 2, thành phố S (Hiện bà Nguyễn Thị D đang quản lý).
8. Bà Nguyễn Thị D trả lại quyền sử dụng thửa đất 214 tờ bản đồ 12, diện tích 110,1m2 (Diện tích đo đạc thực tế là 112,3m2) thể hiện tại các mốc 6 – 7 – 8 – 9 – 10 – 11 – 12 – 6, theo Sơ đồ đo đạc ngày 31/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S, đất tại Phường 2, thành phố S, do bà Nguyễn Thị D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thành L (Hiện ông L đang quản lý, sử dụng).
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, nộp thuế và đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất đã cấp cho Nguyễn Tố L1 ngày 11/3/2020 đối với thửa đất 216, tờ bản đồ 12 để cấp lại cho bà Nguyễn Thị D; Thu hồi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất đã cấp cho Nguyễn Thị D ngày 20/02/2017 đối với thửa đất 214, tờ bản đồ 12 để cấp lại cho ông Nguyễn Thành L.
Kèm theo sơ đồ đo đạc ngày 31/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân thành phố S 9. Về án phí:
+ Bà Nguyễn Tố L1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm và được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà bà L1 đã nộp theo biên lai thu số 0003017 ngày 19/6/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S.
+ Bà Nguyễn Tố L1 phải chịu 27.640.000đ (Đối yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận) và 300.000đ (Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp nhận) án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào 2.100.000đ tiền tạm ứng án phí mà bà L1 đã nộp theo biên lai thu số 0013736 ngày 12/5/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S. Bà Nguyễn Tố L1 còn phải nộp tiếp số tiền 25.840.000đ.
+ Bà Nguyễn Thị D được nhận lại 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0015089 ngày 28/3/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S.
10. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
+ Bà Nguyễn Tố L1 phải chịu 2.809.680đ (Đã nộp xong) + Bà Nguyễn Thị D tự nguyện chịu số tiền là 3.223.500đ (Đã nộp xong).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2024/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 04/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về