Bản án 04/2021/HS-ST ngày 17/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Lăng Thanh N - sinh năm 1998; tên gọi khác: Không có; nơi sinh: Tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp A, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Lăng Văn K và mẹ: Ngô Thị Mai T; Bị cáo: chưa có vợ con; Tiền án: 01. Ngày 25/7/2019, Lăng Thanh N bị Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang xử phạt 12 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Ngày 30/3/2020, Lăng Thanh N chấp hành xong. Nhân thân: Lăng Thanh N đang bị Ủy ban nhân dân thị trấn Bảy Ngàn ra Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 15/7/2020 về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/11/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Lê Thị X – sinh năm 1949; Địa chỉ: Ấp A, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bùi Văn P, sinh năm 1996; địa chỉ: Ấp A, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

Hồ Thanh C, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp T, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt)

Bùi Tấn C, sinh năm 2000; địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 11/8/2020, sau khi chơi game gần cầu 6000, bị cáo Lăng Thanh N đi bộ trên tỉnh lộ 931B về nhà. Khi đi ngang nhà bà Lê Thị X thuộc ấp A, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thì bị cáo N phát hiện phía trước nhà bà X có trồng một cây mai vàng trong chậu xi măng nên bị cáo N nảy sinh ý định lấy trộm. N dùng tay bới đất nhỏ cây mai lên và đem ra lộ. Sau đó, bị cáo N đến gầm cầu 6000 thì gặp Hồ Thanh C, N hỏi C có mua mai không, C nói đem lại nếu mai lớn thì mua nên N nhờ Bùi Tấn C lấy xe máy chở đi lấy cây mai. Có đậu xe gần cầu 5.500 thì N vào lấy cây mai ra. N quay lại thì Cthấy cây mai nhỏ nên C không mua. Lúc này, Bùi Văn P đi đến và N bán cây mai cho P với giá 300.000 đồng, P đưa trước 100.000 đồng, còn 200.000 đồng thì thiếu lại. N về nhà đến ngày 13/8/2020 thì đến Công an thị trấn B đầu thú về hành vi phạm tội.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 56/KL.ĐGTS ngày 23/9/2020 của Hội đồng định giá huyện Châu Thành A đã định giá 01 cây mai vàng, cao 1m70, bề hoành 29cm, gồm 01 thân lên một đoạn chia thành 02 thân nhỏ có giá trị 750.000 đồng.

Vật chứng tạm giữ: 01 cây mai vàng, cao 1m70, bề hoành 29cm, gồm 01 thân lên một đoạn chia thành 02 thân nhỏ, phần rễ đã giũ sạch đất. Đối với cây mai nêu trên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà Lê Thị X.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị X không yêu cầu bị cáo Lăng Thanh N bồi thường.

Đối với Hồ Thanh C, Bùi Tấn C, Bùi Văn P không biết sự việc Lăng Thanh N trộm cắp tài sản nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lăng Thanh N khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng thu giữ như cáo trạng đã nêu.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKS-HCTA ngày 08/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Lăng Thanh N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lăng Thanh N về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lăng Thanh N từ 12 tháng – 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2020.

Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong nên không đề cặp.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề cặp.

Về án phí hình sự: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Lăng Thanh N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bà Lê Thị X, Bùi Văn P, Bùi Tấn C, Hồ Thanh C vắng mặt nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A; Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A; Điều tra viên; kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[1.2] Đối với người hại hại Lê Thị X, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Bùi Văn P, người làm chứng Bùi Tấn C, Hồ Thanh C vắng mặt tại phiên Tòa, xét thấy lời khai của họ đã thể hiện rõ trong hồ sơ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ là đúng quy định.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lăng Thanh N thừa nhận hành vi phạm tội. Đối chiếu lời thừa nhận của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 11/8/2020, bị cáo Lăng Thanh N có hành vi lén lút lấy trộm 01 cây mai vàng, theo kết quả định giá có giá trị 750.000đồng. Mặc dù, giá trị tài sản bị cáo N trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, tuy nhiên do trước đây bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và chưa được xóa án tích nên lần này bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả xảy ra. Bản thân bị cáo là người chưa được xóa án tích về hành vi trộm cắp tài sản và đang là đối tượng giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo đầu thú là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với hành vi của Hồ Thanh C, Bùi Tấn C, Bùi Văn P: Trong quá trình điều tra, truy tố không có chứng cứ và không chứng minh được C, C, P có hành vi phạm tội nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng: Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A trả lại vật chứng cho bị hại là đúng quy định pháp luật nên không đề cặp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị X, Bùi Văn P không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[8] Từ những phân tích nêu trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 292, Điều 293, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lăng Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt: Bị cáo Lăng Thanh N 15 (Mười lăm) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Không đề cặp.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đề cặp.

4.Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Lăng Thanh N phải chịu là 200.000 đồng.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại nơi cư trú. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 17/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;