Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân & gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 249/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - sinh năm 1986 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã Đ, huyện Ư, thành phố Hà Nội

2. Bị đơn: Anh Đào Văn H - sinh năm 1984 (vắng măt) Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã Đ, huyện Ư, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Đào Văn H qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ năm 2010. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống chung với bố mẹ chồng tại quê. Chị làm công nhân còn anh Thành làm lao động tự do. Giai đoạn đầu thì cuộc sống vợ chồng hạnh phúc xong phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Bản thân anh H không tu chí làm ăn, thường xuyên chơi bời nợ nần và còn có quan hệ tình cảm với những người phụ nữ khác. Chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh không hề thay đổi; không hề có trách nhiệm lo toan, vun vén hạnh phúc gia đình. Chị một mình nuôi con, chăm con và phụ giúp gia đình chồng. Chị nhờ cả gia đình chồng khuyên bảo nhưng không được. Xác định không thể cứ kéo dài cuộc sống hôn nhân như vậy, muốn cho vợ chồng có thời gian để nhìn nhận lại mọi vấn đề nên chị đã đưa con về nhà ngoại. Cũng từ đó vợ chồng đã sống ly thân mấy năm nay.Trong thời gian sống ly thân, anh H cũng không hề hỏi thăm, quan tâm đến vợ con. Nay chị nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, ly thân được một thời gian, mục đích hôn nhân không đạt nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Thành. Về con chung: chị và anh H có 02 con chung là Đào Thị H1 – sinh ngày 06/9/2011 và Đào Minh H2 – sinh ngày 30/7/2013. Hiện các cháu đang ở với chị. Từ trước đến nay chị là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu; các cháu đều có nguyện vọng ở với chị; bản thân chị làm công nhân và đang ở chung với bố mẹ nên chỗ ăn ở, thu nhập đủ để ba mẹ con sinh sống chị không đề nghị anh H cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Đào Văn H không có quan điểm, ý kiến.

Tại phiên tòa, anh Đào Văn H vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị Nguyễn Thị T có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Đào Văn Thành. Về con chung, giao cho chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu Đào Thị H1 – sinh ngày 06/9/2011 và Đào Minh H2 – sinh ngày 30/7/2013; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh H cho đến khi có thay đổi khác. Chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Đào Văn H đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh H không có mặt.

Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 06/01/2021 nhưng do sự vắng mặt của anh H nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Đào Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Ứng Hòa, ngày 13/10/2010 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung, đồng thời anh H không tu chí làm ăn, chơi bời, nợ nần, không có trách nhiệm với gia đình. Vì nguyên nhân vậy nên cuộc sống hôn nhân của hai anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân đã được một thời gian. Nay chị T cương quyết xin ly hôn anh H. Anh H thì không có quan điểm, ý kiến gì.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: cuộc sống chung giữa vợ chồng chị T và anh H liên tục xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống; anh H không tu chí làm ăn, không có trách nhiệm lo toan gia đình. Chị T cùng các con về ngoại ở và đã ly thân được một thời gian. Nay chị T có có đơn ly hôn, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ.

Xét thấy: Cuộc sống giữa chị T và anh H mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Đào Văn H có 02 con chung là Đào Thị H1 – sinh ngày 06/9/2011 và Đào Minh H2 – sinh ngày 30/7/2013. Chị T đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng; anh H thì không có quan điểm, ý kiến.

Xét về tính ổn định, môi trường sinh hoạt cũng như tuổi của các cháu thì Hội đồng xét xử thấy: hiện tại cháu H1 và cháu H2 đều đã trên bảy tuổi, có đơn xin ở với mẹ (chị T). Bản thân các cháu đang ở với chị T; học tập và sinh sống tại quê ngoại là phường Duy Hải, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; bản thân chị T là công nhân có thu nhập ổn định. Chính quyền địa phương cũng có quan điểm đề nghị Tòa căn cứ thực tế giải quyết để đảm bảo sự ổn định và quyền lợi, sự phát triển của trẻ em. Vì vậy, giao chị T nuôi cả hai cháu H1, cháu H2 là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị T không đề nghị anh H cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh H cho đến khi có thay đổi khác; anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Đào Văn H không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư:

Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Đào Văn H.

2. Về con chung: Có 02 con chung. Sau ly hôn, giao chị Nguyễn Thị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đào Thị H1 – sinh ngày 06/9/2011 và Đào Minh H2 – sinh ngày 30/7/2013; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh H cho đến khi có thay đổi khác. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

3. Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Đào Văn H không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009825 ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn đều có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi thường trú đối với người vắng mặt./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân & gia đình

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;