Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 320/2019/TLST - HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 93/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1984; Trú tại: Xóm N, xã Tân T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Chu Văn B, sinh năm 1983; Trú tại: Xóm N, xã Tân T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 23 tháng 12 năm 2019 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Nguyễn Thị D trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Chu Văn B đăng ký kết hôn ngày 22/11/2002. Trước khi cưới có được tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Cưới xong chị D về làm dâu và ăn ở chung cùng gia đình anh B. Tình cảm vợ chồng ban đầu hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh B không chịu khó làm ăn, chơi bời, nhiều lần chị khuyên bảo nhưng anh B không nghe, từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng mâu thuẫn căng thẳng. Dẫn đến tháng 7/2018 chị về nhà mẹ đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh B.

Về con chung: Chị D và anh B có 02 con chung là cháu Chu Văn N, sinh ngày 30/12/2003 và cháu Chu Thị H, sinh ngày 17/4/2006. Hiện này 2 con đang ở cùng với chị. Ly hôn chị xin được nuôi cả 2 cháu và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - Anh Chu Văn B vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập theo đúng quy định pháp luật. Tại biên bản lấy lời khai của ông Chu Văn Q bố đẻ của Anh Chu Văn B ngày 26/11/2020, ông Q trình bày: Ông là bố đẻ anh B, chị D là con dâu ông. Anh B, chị D kết hôn với nhau năm 2002. Sau khi cưới chị D về làm dâu và vợ chồng ở riêng luôn không ăn ở cùng gia đình ông. Tình cảm vợ chồng anh chị bình thường sau đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh B ham chơi, không chịu khó làm ăn. Chị D và gia đình ông có động viên khuyên bảo nhiều nhưng anh B không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị D xin ly hôn anh B. Quan điểm của ông là mong anh chị về đoàn tụ còn trường hợp chị D cương quyết ly hôn thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung: Anh B và chị D có 02 con chung là Chu Văn N, sinh ngày 30/12/2003; cháu Chu Thị H, sinh ngày 17/4/2006 hiện nay hai cháu đang ở cùng chị D, ly hôn chị D xin nuôi cả hai con thì gia đình ông cũng đồng ý để chị D nuôi cháu. Hiện tại anh B vẫn có Hộ khẩu ở địa phương, anh B chưa cắt khẩu đi đâu cả. Hiện nay anh B đang đi làm ăn ở Hà Nội, anh làm nghề tự do nay đây mai đó nên không có địa chỉ cụ thể. Việc chị D có đơn ly hôn thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập gia đình ông đều nhận được và có thông báo cho anh B được biết qua điện thoại nhưng anh B nói do anh bận công việc nên anh không về Tòa án giải quyết. Chị D có đơn ly hôn anh cũng đồng ý ly hôn chị D và đề nghị chị D tiếp tục nuôi 02 con chung. Anh Duy thỉnh thoảng vẫn về quê và thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Tân T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc được biết: Chị D và anh B đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Tân T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Vào sổ đăng ký số 42 ngày 22/11/2002. Về tình cảm: Sau khi kết hôn xong chị D về làm dâu và ăn ở chung cùng gia đình anh B. Tình cảm vợ chồng ban đầu hạnh phúc nên anh chị đã có 02 con chung. Đến năm 2018 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo địa phương tìm hiểu và được biết là do anh B ham chơi, thường xuyên lêu lổng, không chịu khó làm ăn, không quan tâm gì đến vợ và các con dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng dạn nứt. Vợ chồng sống ly thân năm 2018 cho đến nay. Nay chị D có đơn ly hôn anh B. Quan điểm của địa phương là đề nghị tòa án kiên trì hòa giải để anh chị về đoàn tụ trường hợp chị D cương quyết ly hôn thì đề nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung: Anh B và chị D có 02 con chung là Chu Văn N, sinh ngày 30/12/2003; cháu Chu Thị H, sinh ngày 17/4/2006 hiện nay hai cháu đang ở cùng chị D. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức, đất canh tác: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi xét xử thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc chấp hành thời hạn xét xử đúng quy định. Tại phiên tòa, việc khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng quy định. Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Yêu cầu chấp hành nghiêm việc chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, tham gia phiên tòa.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D với anh B.

Về con chung: Giao cả hai con chung cho chị D nuôi con là phù hợp.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị D phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Chu Văn B có hộ khẩu thường trú tại xã Tân T. Anh được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt anh B theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ Hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị D và Anh Chu Văn B thấy rằng: Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D và anh Chu Văn B là cuộc hôn nhân tiến bộ và hợp pháp, xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của các bên, nên cũng có một thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B chơi bời không quan tâm đến vợ con, thường xuyên váng nhà vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cãi chửi nhau. Dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, lạnh nhạt. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án anh B biết việc chị D xin ly hôn nhưng không đến tòa làm việc mà không có lý do. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh B đã đến mức căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do vậy việc chị D xin ly hôn anh B là có căn cứ và phù hợp với Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Cháu Chu Văn N, sinh ngày 30/12/2003 và cháu Chu Thị H, sinh ngày 17/4/2006 hiện nay đang ở cùng chị D. Ly hôn nguyện vọng của chị D xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả 2 cháu. Cháu N và cháu H nguyện vọng cũng xin ở với mẹ. Xét thấy: Để ổn định cuộc sống đảm bảo điều kiện ăn ở, sinh hoạt, học tập của cháu N và cháu H nên để chị D tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp với với quy định của pháp luật. Chị D không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức:

Do chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn Anh Chu Văn B.

Về con chung: Giao cháu Chu Văn N, sinh ngày 30/12/2003 và cháu Chu Thị H, sinh ngày 17/4/2006 cho chị Nguyễn Thị D tiếp tục nuôi dưỡng (Hiện nay cháu N và cháu H đang ở cùng chị D). Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D. Anh B có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004823 ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V. Chị Hạnh đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;