TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 04/2020/DS-PT NGÀY 30/10/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 01 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 10/2020/TLPT-DS ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 21/2020/DS-ST ngày 15/09/2020 của Toà án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 06/2020/QĐ-PT ngày 11 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1958 và bà Trần Thị D, sinh năm 1957. Địa chỉ: Bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.
2. Bị đơn có yêu cầu phản tố: Ông Đào Văn C (Đào Xuân C), sinh năm 1963 và bà Phạm Thị V, sinh năm 1963. Địa chỉ: Tiểu khu X, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Phan Thị Nh, sinh năm 1933. Vắng mặt.
+ Bà Đào Thị T, sinh năm 1966. Vắng mặt.
+ Chị Đào Thị Th, sinh năm 1986. Vắng mặt.
Đều trú tại: Bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
+ Ông Đào Xuân T, sinh năm 1969. Có mặt.
+ Anh Đào Tuấn A, sinh năm 1990. Vắng mặt.
Đều trú tại: Tiểu khu X, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Đào Thị Th và anh Đào Tuấn A, bà Phan Thị Nh: Bà Phạm Thị V. Có mặt.
4. Người kháng cáo :
- Bị đơn có yêu cầu phản tố: Bà Phạm Thị V.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, bà Trần Thị D trình bày:
Năm 1995, ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị D mua toàn bộ diện tích gồm đất nông nghiệp, đất thổ cư và công trình trên đất (gồm gian nhà ngói, bếp, chuồng bò, lán, sân phơi, bể nước) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0976369 mang tên ông Đào Văn C do UBND huyện Mai Sơn cấp ngày 8/8/1994. Đất tại Bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Việc chuyển nhượng được thực hiện tại gia đình ông C và bà V, lập giấy bán nhà, đất nương ngày 14/3/1995, có sự chứng kiến của ông Đào Văn Chức, ông Đào Xuân Nhạc, ông Nguyễn Trí Thân. Giá thỏa thuận là 35.000.000VNĐ. Gia đình ông bà đã thanh toán tiền và đã nhận đất theo đúng thỏa thuận, gia đình ông bà C V đã giao lại bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông bà.
Sau khi chuyển nhượng, ông bà N D đã làm thủ tục kê khai phần diện tích đất nông nghiệp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C khi nhà nước cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 898722 ra theo Quyết định số 102/QĐ- UB/2000 do UBND huyện Mai Sơn cấp ngày 6/3/2000. Thửa đất đang tranh chấp chính là thửa đất số 8 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn N cấp năm 2000. Còn phần đất thổ cư nhận chuyển nhượng của ông bà C V, do không có nhu cầu sử dụng nên ông bà đã chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị Lan và giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gốc mang tên ông Đào Văn C cho bà Nguyễn Thị Lan.
Trong quá trình sử dụng đất từ khi nhận chuyển nhượng đến năm 2014 hai bên không có tranh chấp phát sinh. Năm 2014, khi gia đình ông bà đang trồng ngô thì ông bà C V đến đòi lại thửa đất số 88, diện tích là 1.700m2 tại bản N, xã H, huyện Mai Sơn vì cho rằng thửa đất này là đất nhân khẩu, chia cho các thành viên trong gia đình bà nên chỉ bán trong thời hạn 20 năm. Nay đã hết thời hạn 20 năm sử dụng nên yêu cầu ông bà phải trả lại và đã tiến hành trồng nhãn trên diện tích đất tranh chấp.
Ông bà cho rằng đã nhận chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994, trong đó có thửa đất số 88. Sau khi nhận chuyển nhượng, thửa đất này ông bà đã làm thủ tục kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên ông Nguyễn Văn N cấp năm 2000, cụ thể là thửa số 8. Vì vậy, việc ông bà C V đòi lại đất là không có căn cứ, lấn chiếm diện tích đất sử dụng hợp pháp của ông bà. Do đó, ông bà có đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc ông bà C V phải trả lại diện tích đất lấn chiếm tại thửa số 88 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn N do UBND huyện Mai Sơn cấp năm 2000.
Bị đơn ông Đào Văn C, bà Phạm Thị V trình bày:
Ông Đào Văn C và bà Phạm Thị V xác nhận ngày 14/3/1994, do hoàn cảnh khó khăn nên đã chuyển nhượng diện tích đất thổ cư, đất nương cùng toàn bộ công trình trên đất cho ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị D. Diện tích đất chuyển nhượng là toàn bộ diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C do UBND huyện Mai Sơn cấp năm 1994. Tuy nhiên, khi chuyển nhượng ông bà đã nói rõ, trong diện tích đất chuyển nhượng có diện tích đất tại thửa số 88, diện tích là 1.700m2 là đất hợp tác xã chia theo nhân khẩu cho gia đình ông bà và có thời hạn 20 năm. Vì vậy, riêng thửa đất số 88 chỉ chuyển nhượng trong thời hạn 20 năm, hết thời hạn 20 năm phải trả lại cho gia đình ông bà. Việc thỏa thuận này, hai bên chỉ trao đổi bằng miệng với nhau chứ không đưa vào nội dung giấy chuyển nhượng và cũng không lập thành văn bản riêng. Hai bên đã tiến hành giao đất và nhận tiền, bên nhận chuyển nhượng đã sử dụng đất từ khi chuyển nhượng.
Đến năm 2014, khi hết hạn 20 năm, ông bà đến trao đổi với ông bà N D, yêu cầu trả lại thửa đất số 88 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C do UBND huyện Mai Sơn cấp năm 1994 nhưng ông bà N D không trả. Tại bản N, xã H, tất cả các trường hợp mua đất nhân khẩu 20 năm đều đã trả lại chủ cũ, riêng ông bà N D không trả. Vì vậy, ông bà đã sử dụng thửa đất số 88 và trồng nhãn trên đất.
Nay ông bà N D khởi kiện ông bà đòi lại thửa đất số 88, ông bà không đồng ý và có yêu cầu phản tố với nội dung: Đề nghị hủy một phần giấy bán nhà và đất nương ngày 14/3/1995 và đòi lại diện tích đất đất 1.700m2 tại thửa số 88 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C do UBND huyện Mai Sơn cấp năm 1994. Bởi lẽ: Việc thửa đất này được cấp đổi thành thửa số 8 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn N năm 2000 là không hợp pháp, gia đình ông bà không được biết về việc làm thủ tục sang tên này, ông bà N D đã không thông báo cho ông bà và tự ý sang tên đổi chủ, hiện tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn mang tên ông C. Hơn nữa, thửa đất này là thửa đất được hợp tác xã chia cho nhân khẩu. Thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994, gia đình ông bà gồm ông Đào Văn L (hiện đã chết), bà Phan Thị Nh, ông Đào Xuân C, bà Phan Thị V, ông Đào Văn T, bà Đào Thị T, cháu Đào Thị Th và cháu Đào Tuấn A. Vì vậy, việc chuyển nhượng đất chỉ trong 20 năm, hết thời hạn thì ông bà N, D phải trả cho ông bà và các nhân khẩu khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông bà C, V xác định lại thửa đất tranh chấp là thửa đất số 118 có tổng cộng là 2.300m2 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994. Thực tế, năm 2014 Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ là 3.262,6m2 là do gia đình khai phá từ trước khi chuyển nhượng đất cho gia đình ông bà N, D.
Vì vậy, ông bà vẫn giữ yêu cầu phản tố, đề nghị ông bà N, D trả lại phần đất chia theo nhân khẩu tại thửa đất 118 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994 sau thời hạn 20 năm được Hợp tác xã chia.
Ý kiến trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Nh, ông Đào Xuân T, chị Đào Thị Th, anh Đào Tuấn A: Việc anh chị C, V chuyển nhượng đất nương chia cho nhân khẩu, những người liên quan không đồng ý. Đất nhân khẩu là do Hợp tác xã chia theo số khẩu trong gia đình, mỗi người trong khẩu được chia 200m2. Việc thửa đất chia theo nhân khẩu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C, gia đình không họp và thống nhất lập thành văn bản. Ngoài ra, thửa đất chia cho nhân khẩu là thửa đất hợp tác xã chia, không lập thành văn bản, tuy nhiên những người dân trong bản N ai cũng biết. Đối với những thửa đất chia theo nhân khẩu, trong bản N ai cũng sử dụng 20 năm thì trả lại cho chủ cũ để nhà nước chia lại. Trường hợp nhà nước không chia lại thì vẫn thuộc quyền sử dụng và quản lý của chủ cũ. Vì vậy, phần đất nhân khẩu mà ông bà C, V đã chuyển nhượng, đề nghị ông bà N, D phải trả lại cho những người trong khẩu.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 21/2020/DS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, quyết định:
Căn cứ khoản 7 Điều 25, Điều 33 và Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự 2004; các Điều 157, Điều 165, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
các Điều 24, Điều 25, Điều 36 Luật đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Điều 166, khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 24, khoản 2 và khoản 5 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị D. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Phạm Thị V và ông Đào Văn C và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc hủy một phần giấy bán nhà và đất nương ngày 14/3/1995, yêu cầu ông N và bà D trả lại diện tích đất chia theo nhân khẩu tại thửa số 118 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994.
Gia đình bà Trần Thị D và ông Nguyễn Văn N được tiếp tục sử dụng toàn bộ diện tích đất tại thửa số 8, tờ bản đồ H-2-2, diện tích đất là 1.600m2. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 898722 mang tên Nguyễn Văn N theo Quyết định số 102/QĐ-UB/2000 do UBND huyện Mai Sơn cấp ngày 6/3/2000 và 1.662,6m2 diện tích đất liền kề hiện gia đình bà Trần Thị D và ông Nguyễn Văn N đang sử dụng, địa chỉ: Bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Tổng diện tích là 3.262,6m2 (đất đã trừ diện tích mương nước chảy).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/9/2020 bà Phạm Thị V có đơn kháng cáo không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét buộc nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, bà Trần Thị D phải trả lại 3.262m2 diện tích đất tại bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cho gia đình bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, quan điểm của bị đơn: Giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét buộc ông bà N D phải trả lại diện tích đất 3.262,6m2 cho gia đình ông bà.
Quan điểm của nguyên đơn: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đào Xuân T: Nhất trí với ý kiến của bị đơn. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét buộc ông bà N D phải trả lại diện tích đất chia theo nhân khẩu tại thửa số 88 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994 cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Quan điểm giải quyết của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện và chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Hướng giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Phạm Thị V, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Đào Văn C và bà Phạm Thị V không được sử dụng phần diện tích đất của mình đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn N do UBND huyện Mai Sơn cấp năm 2000. Bị đơn có yêu cầu phản tố đề nghị nguyên đơn phải trả lại phần diện tích đất của mình vì cho rằng đất sử dụng đã quá 20 năm nên phải trả cho chủ cũ. Do đó, cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp quyền sử dụng đất là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét kháng cáo của bị đơn Phạm Thị V, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[2.1] Về nguồn gốc đất:
Ngày 8/8/1994 bị đơn Đào Văn C được UBND huyện Mai Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có thửa đất nương số 88 có diện tích 1700m2 thời hạn sử dụng đất là 20 năm. Đến ngày 14/3/1995 ông Đào Văn C chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1994, trong đó có thửa đất nương số 88 có diện tích 1700m2 (hiện nay đang tranh chấp) cho ông Nguyễn Văn N theo giấy bán nhà và đất nương ngày 14/3/1995 nội dung thể hiện cụ thể diện tích đất, số thửa đất và tài sản trên đất, việc mua bán có người làm chứng, có xác nhận của ban quản lý Hợp tác cùng địa chỉ thửa đất. Các bên đều thừa nhận nội dung này là đúng sự thật, có sự bàn giao rõ ràng giữa hai bên, nguyên đơn đã thanh toán đẩy đủ số tiền, nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng đất ổn định, lâu dài từ năm 1995 đến nay.
Tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn xác định thửa đất đang tranh chấp là thửa số 8, thuộc tờ bản đồ H-2-2, diện tích 1600m2 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn N cấp năm 2000. Bị đơn xác định phần đất đang tranh chấp là thửa đất số 88, diện tích 1.700m2, sau đó xác định lại thửa đất đang tranh chấp là thửa số 118, diện tích 2.300m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C được cấp năm 1994. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đã xác định lại phần đất đang tranh chấp là thửa số 88, diện tích 1.700m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C được cấp năm 1994. Tại Công văn số 24/TNMT ngày 09/4/2020 về việc nêu ý kiến theo yêu cầu của Tòa án, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Mai Sơn trả lời: “Ngày 08/8/1994, UBND huyện Mai Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đào Văn C theo Quyết định số 92/QĐ-UB, với tổng diện tích được cấp là 8.990m2. Đến ngày 14/3/1995, ông Đào Văn C chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1994 cho ông Nguyễn Văn N, trong đó có thửa đất số 88, diện tích 1700m2. Đến năm 2000, ông N cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 88 được cấp thành thửa số 8 tờ bản đồ số H-2-2, diện tích 1600m2”. Đồng thời, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ bổ sung ngày 17 tháng 8 năm 2020 cũng xác định diện tích đất đang xem xét thuộc thửa đất số 88, diện tích 1.700m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0976369 mang tên ông Đào Văn C cấp ngày 08/8/1994. Do đó, thửa đất đang tranh chấp được xác định là thửa số 88, diện tích 1.700m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C được cấp năm 1994, sau được cấp đổi thành thửa số 8, tờ bản đồ số H-2- 2, diện tích 1600m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn N cấp năm 2000.
Ngoài ra, bị đơn trình bày đã khai hoang thêm phần diện tích cỏ ranh xung quanh trước thời điểm chuyển nhượng đất cho ông bà N, D năm 1995. Căn cứ biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2015 và xem xét bổ sung ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xác định phần diện tích đất đang tranh chấp tại bản N, xã H tổng diện tích là 3.262,6m2.
[2.2] Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
Ông, bà V cho rằng khi mua bán mảnh nương trên đã thỏa thuận miệng rằng mảnh nương số 88 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Đào Văn C là đất Hợp tác xã chia theo nhân khẩu cho gia đình ông bà trong thời hạn 20 năm nên hết 20 năm ông N phải trả lại mảnh nương trên cho gia đình ông bà, đồng thời trên thực tế các hộ gia đình tại bản N đều trả lại đất cho chủ cũ sau 20 năm sử dụng. Chỉ riêng gia đình ông bà N D không trả lại phần đất chia cho nhân khẩu cho gia đình ông bà. Tuy nhiên, nội dung trên các bên không thỏa thuận bằng văn bản, nguyên đơn không thừa nhận sự việc, ngoài lời trình bày của phía bị đơn, không còn chứng cứ nào khác chứng minh lời khai của phía bị đơn là có căn cứ. Mặt khác, căn cứ quy định tại Điều 23, 24 Luật đất đai năm 1993, thì Hợp tác xã không có thẩm quyền giao đất theo quy định pháp luật. Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã tiến hành xác minh tại địa phương nơi xảy ra tranh chấp, qua đó Ủy ban nhân dân xã Hát Lót khẳng định tại thời điểm trước năm 1994, Hợp tác xã N không có thẩm quyền giao đất. Do vậy, không có việc Hợp tác xã N giao thửa đất số 88, diện tích 1.700m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994 cho gia đình ông bà. Đồng thời, về nội dung tất cả các hộ gia đình tại bản đều trả lại phần đất chia theo nhân khẩu sau khi hết thời hạn giao đất 20 năm, tại địa phương bản N, xã H cũng không tồn tại hương ước dưới dạng thành văn và phong tục, tập quán mang tính cộng đồng về vấn đề này.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1994 cho ông Đào Văn C là cấp cho cá nhân ông, không phải cấp cho hộ gia đình. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất những người trong hộ gia đình ông C cũng không có văn bản ủy quyền cho ông C đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó yêu cầu của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án cho rằng thửa đất số 88 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Đào Văn C là đất chia cho nhân khẩu trong thời hạn 20 năm là không có căn cứ.
Trên thực tế, diện tích đất tranh chấp là 3.262,6 m2 lớn hơn so với diện tích đất 1.600 m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, gia đình ông bà N, D đã sử dụng đất ổn định từ năm 1995 đến nay và không có tranh chấp với ai. Tại thời điểm gia đình ông bà C, V chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 1995, công cụ phương tiện đo đạc còn thô sơ thiếu chính xác, diện tích đất chuyển nhượng lại đặc biệt lớn nên có thể dẫn đến việc xác định sai diện tích đất chuyển nhượng trên giấy tờ. Hơn nữa, trong thời gian đó, bị đơn cũng không có ý kiến về việc nguyên đơn sử dụng diện tích 3.262,6m2 bao gồm cả phần diện tích đất bị đơn khai hoang trước khi chuyển nhượng đã thể hiện sự thống nhất ý chí về diện tích đất thực tế bị đơn chuyển nhượng cho nguyên đơn là 3.262,6 m2. Do vậy, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận diện tích đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn và bác yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đòi lại quyền sử dụng đất là có căn cứ, đúng pháp luật.
Từ những nhận định nêu trên, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn Phạm Thị V, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn.
[3] Về án phí:
- Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận và yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận nên cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn ông Đào Văn C, bà Phạm Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là có căn cứ.
- Về án phí phúc thẩm: Bà Phạm Thị V phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định, do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Phạm Thị V, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 21/2020/DS-ST ngày 15/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị D. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Phạm Thị V và ông Đào Văn C và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc hủy một phần giấy bán nhà và đất nương ngày 14/3/1995, yêu cầu ông N và bà D trả lại diện tích đất chia theo nhân khẩu tại thửa số 88 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đào Văn C cấp năm 1994.
Gia đình bà Trần Thị D và ông Nguyễn Văn N được tiếp tục sử dụng toàn bộ diện tích đất tại thửa số 8, tờ bản đồ H-2-2, diện tích đất là 1.600m2. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 898722 mang tên Nguyễn Văn N theo Quyết định số 102/QĐ-UB/2000 do UBND huyện Mai Sơn cấp ngày 6/3/2000 và 1.622,6m2 diện tích đất liền kề hiện gia đình bà Trần Thị D và ông Nguyễn Văn N đang sử dụng, địa chỉ: Bản N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Tổng diện tích là 3.262,6m2 (đất đã trừ diện tích mương nước chảy).
2. Về án phí: Bà Phạm Thị V phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0000175 ngày 23 tháng 9 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (01/12/2020).
Bản án 04/2020/DS-PT ngày 30/10/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 04/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về