TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 04/2018/HS-ST NGÀY 12/02/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 02 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 03/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Nình A Ph1 - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 03/3/2000, tại huyện T, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Kh, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Sán chỉ; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Nình A P và bà Lỷ Móc Ng; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa có; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt.
2. Nông Văn Y - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/7/1978, tại huyện T, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Nông Công O (đã chết) và bà Trần Thị Ph; có vợ là Trần Thị Th và 03 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: chưa có; nhân thân: ngày 14/11/2003 bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 14/11/2005; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt.
* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nình A Ph1:
1. Anh Nình A P – sinh năm 1971; trú tại: thôn Kh, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh - Là bố đẻ của bị cáo Ph1. Có mặt.
2. Chị Lỷ Móc Ng – sinh năm 1975; trú tại: thôn Kh, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh – Là mẹ đẻ của bị cáo Ph1. Có mặt.
* Đại diện nhà trường nơi bị cáo Nình A Ph học tập: Cô Nguyễn Thị Việt H – sinh năm 1988; trú tại: thôn Tr, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Ninh – Là cô giáo chủ nhiệm của bị cáo Nình A Ph1. Có mặt.
* Người bị hại: Anh Lỷ A Th – sinh ngày 15/7/1979; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
* Người làm chứng:
1. Anh Sằn A Ph2 – sinh năm 1974; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
2. Anh Nình A Ch – sinh năm 1993; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
3. Anh Trần A C – sinh năm 1973; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
4. Anh Nình A D – sinh năm 1989; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
5. Chị Lỷ Móc C – sinh ngày 20/8/1999; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnhQuảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
6. Anh Trần Văn Th – sinh năm 1990; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnhQuảng Ninh. Có mặt.
7. Chị Nình Móc D – sinh năm 1979; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
8. Chị Lỷ Móc D – sinh năm 1977; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnhQuảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/7/2017, tại nhà anh Sằn A Ph2 ở thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Nình A Ph1 và Nông Văn Y đã dùng chân, tay đánh anh Lỷ A Th gây thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể 48% sức khỏe.
Tại Giấy chứng nhận thương tích của Trung tâm y tế huyện Tiên Yên cấp ngày 13/9/2017, xác định tình trạng thương tích của anh Lỷ A Th khi vào viện hồi 00 giờ 35 phút ngày 14/7/2017 như sau: Đau bụng thượng vị, sưng nề bầm tím mắt phải, sây xước da mạng sườn hai bên, sây xước rớm máu ngực, đau quặn bụng từng cơn, bụng chướng. Chuẩn đoán: Vỡ hỗng tràng. Điều trị: Mổ cắt hỗng tràng.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 479 ngày 14/9/2017, của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Quảng Ninh, kết luận: anh Lỷ A Th bị chấn thương vùng bụng – mạng sườn hai bên gây vỡ hỗng tràng do vật tày gâ nên, hướng từ trước ra sau. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 48%.
Tại Công văn số 29/CV ngày 09/11/2017 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Quảng Ninh giải thích kết luận giám định thương tích số 479 ngày 14/9/2017 nêu trên: Chấn thương vùng bụng – mạng sườn hai bên gây vỡ hỗng tràng, theo cơ chế trực tiếp như sau: Ổ bụng được cấu tạo bởi phía trước là thành bụng, phía sau là cột sống, phía trên là cơ hoành, phía dưới là xương chậu. Vật tày tác động mạnh trực tiếp vào vùng bụng – mạng sườn hai bên gây tăng áp lực đột ngột trong ổ bụng và các quai ruột dẫn đến vỡ hỗng tràng. Việc dùng chân đá, đạp hoàn toàn có thể gây ra vỡ hỗng tràng như đã mô tả trong kết luận.
Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn Y khai nhận: chiều tối ngày 13/7/2017, bị cáo cùng với anh Nình A P, Nình A Ph1, Nình A Ch và một số người nữa uống rượu ăn thịt chó tại nhà anh Ph2 ở thôn K, xã Đ, trong lúc đang ăn uống thì có anh Th đến, do anh Th có biểu hiện say rượu nên Ph1 và anh Ch cùng một số người đi ra ngoài không ăn nữa. Một lúc sau thì anh Th đến mời rượu anh P nhưng anh P không uống nên Th đã dùng tay nâng cằm anh P lên và đổ rượu vào mồm và mũi anh P, rồi giữa anh Th và Y xảy ra mâu thuẫn xô xát, Y đã dùng tay đánh vào mặt anh Th, rồi đẩy anh Th ra trước cửa nhà anh Ph2 và vật lộn với nhau. Sau đó được mọi người can ngăn nên Y đi vào trong nhà anh Ph2 tiếp tục uống rượu, còn anh Th ngồi lên xe mô tô của mình dựng ở cửa nhà anh Ph2 chửi và dọa sẽ gọi người đến đánh Y. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày thấy Ph1 quay lại vào trong nhà anh Ph2 thì bị cáo nói cho Ph1 biết việc anh Th đổ rượu vào mồm anh P, ngay lúc đó Ph1 đi ra ngoài sân tìm anh Th, thấy thế bị cáo cũng theo ngay sau mục đích nêu có chuyện gì sẽ đánh bênh Ph1. Khi ra trước cửa thì thấy Ph1 dùng chân đạp vào vùng ngực, bụng làm anh Th bị ngã ra, Ph1 tiếp tục dùng tay đánh vật lộn với anh Th, sau đó thấy Th ngồi đè lên Ph1, bị cáo liền lao vào dùng chân đá hai phát vào vùng hông, mạng sườn bên phải người anh Th, sau đó được mọi người can ngăn nên Ph1 và bị cáo không đánh Th nữa và đi về nhà.
Tại phiên tòa bị cáo Nình A Ph1 khai nhận: khi nghe bị cáo Y nói việc anh Th đổ rượu vào mồm bố bị cáo, bị cáo đi ra trước sân tìm anh Th, lúc đó bị cáo thấy Y đi ngay sau, khi thấy anh Th đang ngồi trên xe mô tô dựng ở trước cửa nhà anh Ph2, bị cáo hỏi anh Th là “mày đánh bố tao à?” thì anh Th trả lời “ừ, thì làm sao” rồi bước xuống xe, bị cáo bực quá không kiềm chế được bản thân nên bước đến và dùng chân trái đạp mạnh vào vùng ngực, bụng làm anh Th bị ngã ra, bị cáo tiếp tục dùng tay đánh vào vùng đầu và dùng chân đá vào vùng hông, mạng sườn anh Th thì bị anh Th dùng tay kéo chân làm bị cáo ngã xuống, anhTh ngồi đè lên bị cáo. Lúc này, bị cáo thấy Y lao vào dùng chân đá vào người anh Th, sau đó được mọi người can ngăn nên bị cáo và bị cáo Y không đánh anh Th nữa và đi về nhà.
Tại phiên tòa người bị hại anh Lỷ A Th khai cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo Nình A Ph1 Nông Văn Y như nêu trên, sau khi đổ rượu vào mồm anh P thì anh và anh Y xô sát, vật lộn với nhau nhưng chưa bị thương tích gì, sau đó anh bị Ph1 Yên dùng chân tay đánh gây thương tích phải đi trạm y tế xã, Trung tâm y tế huyện cấp cứu, điều trị và bị tổn hại 48% sức khỏe.
Lời khai của người làm chứng anh Nình A Ch có trong hồ sơ vụ án thể hiện: sau khi đi cùng Ph1quay lại nhà anh Ph2 để đón anh P, anh đứng ở ngoài đường chờ còn Ph1 vào nhà anh Ph2, một lúc sau thấy Ph1 đi ra nói chuyện gì đó với anh Th, sau đó dùng chân đạp vào vùng bụng anh Th, vật lộn đánh nhau, tiếp đó thấy Y cũng lao vào dùng chân tay đánh anh Th.
Lời khai của người làm chứng anh Sằn A Ph2, anh Nình A P có trong hồ sơ vụ án thể hiện cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo, lời khai của người bị hại, nguyên nhân dẫn đến xô sát đánh nhau do anh Th say rượu, đổ rượu vào mồm và mũi anh P. Lời khai của người làm chứng Trần A C và Nình A D có trong hồ sơ vụ án thể hiện: tối ngày 13/7/2017 các anh uống rượu tại nhà anh Sằn A Ph2 cùng với anh Ph2, anh P, anh Y, anh Ph1, anh Ch, anh C và một số người nữa. Khoảng 19 giờ anh Th đi đến nhà anh Ph2 có biểu hiện say rượu, nói lung tung, anh Th ngồi khoảng 15 phút thì bỏ đi, đến khoảng 20 giờ thì anh Th lại quay lại nhà anh Ph2, thấy anh Th say rượu có biểu hiện nhũng nhiễu thì các anh và một số người khác bỏ đi.
Tại bản Cáo trạng số 03/CT-VKSHTY ngày 18/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh truy tố các bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y, về tội: "Cố ý gây thương tích" theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên xử: Các bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y phạm tội “Cố ý gây thương tích”
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; Điều 17; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Nình A Ph1 từ 24 đến 27 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 đến 54 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; Điều 17; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nông Văn Y từ 24 đến 27 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 đến 54 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Trả lại cho người đại diện hợp pháp của bị cáo Ph1 anh Nình A P số tiền 20.000.000 đồng và trả lại cho bị cáo Nông Văn Y số tiền 20.000.000 đồng tiền đã nộp vào cơ quan thi hành án dân sự huyện Tiên Yên để đảm bảo việc bồi thường dân sự.
Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại không tranh luận gì với lời luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và cho các bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y, người đại diện hợp pháp của bị cáo Nình A Ph1 và người bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Hành vi của bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y phạm vào tội “Cố ý gây thương tích’’ được quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự 1999). Tuy nhiên Căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015) về việc áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội. Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm; khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm. Như vậy, khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù thấp hơn khoản 2 Điều 104 Bộ luật hìnhsự năm 1999, ngoài ra các quy định khác của Bộ luật Hình sự 2015 có lợi hơn cho các bị cáo so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó cần áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là phù hợp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp nhau; phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại anh Lỷ A Th và lời khai của những người làm chứng Sằn A Ph2, Nình A Ch, Trần A C và Nình A D; phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: biên bản xác định hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, sơ đồ thực nghiệm điều tra, bản ảnh thực nghiệm điều tra của Công an huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh; Giấy chứng nhận thương tích của Trung tâm y tế huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh; bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 479 ngày 14/9/2017 và Công văn số 29/CV ngày 09/11/2017 giải thích kết luận giám định thương tích số: 479 ngày 14/9/2017 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Quảng Ninh và Cáo trạng số: 03/CT-VKSHTY ngày 18/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Như vậy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/7/2017, tại nhà anh Sằn A Ph2 ở thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Nình A Ph1 và Nông Văn Y đã dùng chân, tay đánh anh Lỷ A Th gây thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể 48% sức khỏe.
Bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh người khác của mình là trái pháp luật; giữa các bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn từ trước, xuất phát từ việc anh Th có biểu hiện say rượu đổ rượu vào mồm bố bị cáo Ph1, đồng thời có lời nói khiếm nhã đối với bị cáo Y, thách thức đối với bị cáo Ph1, dẫn tới các bị cáo không kiềm chế được bản thân, dùng chân tay đánh anh Th gây thương tích. Hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra là không nhỏ, làm anh Th bị tổn hại 48% sức khỏe. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của anh Th mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, đúng với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo.
Đánh giá tính chất, vai trò của các bị cáo thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công từ trước. Bị cáo Ph1 là người đánh anh Th trước, thực hiện tích cực, thương tích của anh Th chủ yếu do bị cáo Ph1 gây ra, nên bị cáo Ph1 giữ vài trò đầu vụ. Bị cáo Y sau khi nói cho bị cáo Ph1 biết lúc Ph1 không có ở đó, anh Th đổ rượu và mồm, mũi anh P (bố bị cáo Ph1), thấy Ph1 đi ra chỗ anh Th ngồi Y đoán Ph1 sẽ đánh anh Th nên đã đi theo để hỗ trợ cho Ph1 nếu như Ph1 bị anh Th đánh và thực tế khi thấy anh Th ngồi đè lên Ph1 thì Y đã lao vào đá anh Th hai nhát để giải cứu cho Ph1, vì vậy bị cáo Y là người giữ trò sau bị cáo Ph1. Xét cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: cả hai bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo Nình A Ph1 hiện đang là học sinh lớp 10, bị cáo Nông Văn Y là người dân lao động, cả hai bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sự am hiểu pháp luật và xã hội có phần hạn chế; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân; có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; chủ động bồi thường thỏa đáng thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại anh Lỷ A Th số tiền là 145 triệu đồng, anh Th có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị cho các bị cáo được hưởng án treo; trong vụ án này người bị hại anh Lỷ A Th cũng có lỗi là đã có hành vi, lời nói không đúng chuẩn mực đạo đức như đổ rượu vào mồm bố bị cáo Ph1, lời nói khiếm nhã, thách thức và dọa gọi người đến đánh bị cáo Y. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự cho các bị cáo. Ngoài ra bị cáo Nình A Ph1 tại thời điểm phạm tội là chưa thành niên mới 17 tuổi 4 tháng 10 ngày, nên được áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo và thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội, mà giao các bị cáo cho Chính quyền địa phương nơi các bị cáo thường trú giám sát, giáo dục cũng đủ tính răn đe và phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo Y, bị cáo Ph1, người đại diện hợp pháp của bị cáo Ph1 đã thỏa thuận bồi thường cho người bị hại anh Lỷ A Th các khoản gồm: tiền viện phí, tiền chạy chữa, tiền tổn thất về tinh thần, tiền ngày công lao động bị mất của bản thân và người chăm sóc và các chi phí khác liên quan đến anh Th bị thương tích tổng số tiền là 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng). Cụ thể bị cáo Nông Văn Y bồi thường 72.500.000đ (Bảy mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng), bị cáo Nình A Ph1 bồi thường 72.500.000đ (Bảy mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh Th đã nhậnđủ số tiền trên. Tại phiên tòa anh Th không yêu cầu các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị cáo Ph1 phải bồi thường gì thêm, nên không đề cập giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 20.000.000 đồng anh Nình A P nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên để đảm bảo bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Th thay cho bị cáo Nình A Ph1; 20.000.000 đồng bị cáo Nông Văn Y nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên để đảm bảo bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Th. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, nên trả lại số tiền trên cho anh P và bị cáo Y.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: các bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; khoản 1 Điều 17; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Nình A Ph1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; khoản 1 Điều 17; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nông Văn Y 24 (Hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nình A Ph1 cho Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; giao bị cáo Nông Văn Y cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi về nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
+ Trả lại cho người đại diện hợp pháp của bị cáo Nình A Ph1 anh Nình A P (sinh năm 1971; trú tại: thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh) số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0006311 ngày 02/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên yên, tỉnh Quảng Ninh.
+Trả lại cho bị cáo Nông Văn Y (sinh năm 1978; trú tại: thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Ninh) số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0006312 ngày 03/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Áp dụnG khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nình A Ph1 và Nông Văn Y mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Các bị cáo, Người đại diện hợp pháp của bị cáo, Người bị hại có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2018/HSST ngày 12/02/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 04/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về