TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2023/HSST ngày 21 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:
Bị cáo thứ nhất: Nguyễn Chí C, sinh ngày 11/7/1991 tại Gia Lai; nơi cư trú: Thôn TL, xã IS, huyện PT, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở: Ấp A, xã HV, huyện NC, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1947 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1950; anh chị em ruột: 04 người; vợ: chưa có; tiền án: 03 (Ngày 23/9/2009 bị Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 26/9/2011; Ngày 16/01/2014 bị TAND tỉnh Gia Lai xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/9/2016; Ngày 05/01/2018 bị TAND tỉnh Gia Lai xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/3/2023); tiền sự: Không; Nhân thân: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 10/8/2023 cho đến nay (Có mặt).
Bị cáo thứ hai: Nguyễn Huỳnh L, sinh ngày 10/10/1984 tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp TB, xã VAĐ, huyện NH, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1959 và con bà Lê Thị T, sinh năm 1964; anh chị em ruột: 03 người; vợ: Lê Thị H (Đã ly hôn); con: 02 người; tiền án, 1 tiền sự: Không; Nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/8/2023, đến ngày 10/8/2023 chuyển sang tạm giam cho đến nay (Có mặt).
- Bị hại:
+ Anh Phạm Thanh T, sinh năm 1972 (Vắng mặt).
Cư trú: Khóm S, thị trấn NC, huyện NC, tỉnh Cà Mau
+ Chị Phạm Ngọc H, sinh năm 1974 (Có mặt).
Cư trú: Khóm S, thị trấn NC, huyện NC, tỉnh Cà Mau
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Lê Thị T, sinh năm 1964 (Có mặt).
Cư trú: Ấp TB, xã VAĐ, huyện NH, tỉnh Cà Mau.
+ Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 2001 (Có mặt).
Cư trú: Khóm CN, thị trấn NC, huyện NC, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 21 giờ 04 phút ngày 26/7/2023, khi anh Phạm Thanh T đang xem tivi ở phòng khách trong nhà (tiệm cầm đồ NH) thuộc Khóm 3, thị trấn Năm Căn thì có 01 đối tượng lạ mặt xông vào nhà trước, dùng búa tạ đập bể tủ trưng bày bán trang sức, lấy đi một số nữ trang (vàng xi) rồi ra xe đồng bọn chờ sẵn tẩu thoát. Sau đó, gia đình anh T tố giác tội phạm.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Năm Căn tiến hành khám nghiệm hiện trường, kết quả xác định tài sản bị mất 20 chiếc lắc đeo tay bằng kim loại mạ vàng (vàng giả), 15 sợi dây chuyền bằng kim loại mạ vàng (vàng giả), 01 cái tủ bị bể, thu giữ 01 cây búa tạ dài 34cm, cán gỗ, đầu búa bằng kim loại và trích xuất camera nhà anh T.
Đến ngày 06/8/2023 Nguyễn Huỳnh L đến Cơ quan Công an huyện Năm Căn đầu thú, thừa nhận là người điều khiển xe mô tô Airblade biển số kiểm soát 81D1-011…. chở Nguyễn Chí C thực hiện hành vi cướp giật tài sản tại tiệm cầm đồ NH. Ngày 10/8/2023 bị cáo Nguyễn Chí C bị bắt tạm giam.
Tang vật thu giữ gồm:
01 xe mô tô hiệu Airblade màu xám kiểm soát 81D1-011…;
01 nón bảo hiểm màu trắng có 02 sọc đỏ, 01 sọc màu xám ở giữa, phía sau nón có chữ PRUDENTIAL;
01 cái quần Jean dài màu xám đen đã qua sử dụng;
01 cái áo thun nam cổ tròn dài tay, màu đen, trước ngực có chữ DSQUARED2MILAN đã qua sử dụng;
2 01 áo khoát nam màu đen, có mũ trùm đầu, áo thun có in chữ DIOR đã qua sử dụng;
01 phong bì màu trắng hình chữ nhật niêm phong kín dán lại, bên trong phong bì có chứa 03 đoạn kim loại màu vàng có gắn hột màu trắng, kiểu lắc đeo tay.
Tại bản kết luận định giá tài sản trong Tố tụng hình sự số 11/KL-HĐĐGTS ngày 28 tháng 8 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Năm Căn kết luận: 20 chiếc lắc đeo tay bằng kim loại mạ vàng (vàng giả) có giá trị 3.660.000 đồng; 15 sợi dây chuyền bằng kim loại mạ vàng (vàng giả) có giá trị 3.249.000 đồng và 01 tắm kính thủy tinh, kích thước 82cm x 60cm, dầy 8mm có giá trị 367.327 đồng. Tổng giá trị tài sản được xác định 7.276.327 đồng (bảy triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn ba trăm hai mươi bảy đồng).
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 19/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn truy tố bị cáo Nguyễn Chí C tội “Cướp giật tài sản” theo điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Huỳnh L tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
* Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Giữ y quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự phạt bị cáo C từ 04 năm đến 05 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự phạt bị cáo L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 nón bảo hiểm màu trắng có 02 sọc đỏ, 01 sọc màu xám ở giữa, phía sau nón có chữ PRUDENTIAL; 01 cái quần Jean dài màu xám đen qua sử dụng; 01 cái áo thun nam cổ tròn dài tay, màu đen, trước ngực có chữ DSQUARED2MILAN đã qua sử dụng; 01 áo khoát nam màu đen, có mũ trùm đầu, áo thun có in chữ DIOR đã qua sử dụng; 01 phong bì màu trắng hình chữ nhật niêm phong kín dán lại, bên trong phong bì có chứa 03 đoạn kim loại màu vàng có gắn hột màu trắng, kiểu lắc đeo tay; 01 cây búa tạ đã qua sử dụng dài 34cm.
Hoàn trả cho anh Nguyễn Tuấn Anh 01 xe mô tô hiệu Airblade màu xám biển kiểm soát 81D1-011… * Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo C và L thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
* Bị hại chị Phạm Ngọc H đã nhận đủ T bộ thiệt hại số tiền 10.000.000 đồng nên không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm. Về hình phạt xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L và C.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T xác định không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền bà khắc phục 5.000.000 dồng cho bị hại * Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Tuấn A xác định trước đó có cho bị cáo C mượn xe Airblade biển kiểm soát 81D1-011… và 01 cây búa tạ nhưng không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội. Nay anh xin nhận lại xe và không nhận lại cây búa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Năm Căn, Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo C và L thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, người làm chứng, biên bản khám nghiệm và sơ đồ, camera hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập thẩm tra làm rõ tại phiên tòa, đã chứng minh: Vào ngày 26/7/2023, bị cáo Nguyễn Huỳnh L điều khiển xe máy Airblade biển số kiểm soát 81D1-011… chở bị cáo Nguyễn Chí C đi chơi, xe mượn của Nguyễn Tuấn A, khi xe chạy ngang tiệm cầm đồ NH thuộc Khóm 3, thị trấn Năm Căn thì C và L nảy sinh ý định cướp giật tài sản nên chạy xe qua lại nhiều lần xem xét tình hình. Đến 21 giờ 04 phút cùng ngày 26/7/2023, bị cáo Nguyễn Chí C dùng 01 cây búa tạ dài 34cm mượn của Nguyễn Tuấn A xông vào nhà trước, dùng búa tạ đập bể tủ trưng bày bán trang sức, lấy đi 20 chiếc lắc đeo tay bằng kim loại mạ vàng; 15 sợi dây chuyền bằng kim loại mạ vàng rồi nhanh chóng chạy lên xe cho Nguyễn Huỳnh L chờ sẵn tẩu thoát. Tổng giá trị các bị cáo chiếm đoạt qua định giá bằng 6.909.000 đồng và gây thiệt hại 01 tấm kính trị giá 367.327 đồng. Tại khoản 1, 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự quy định về tội Cướp giật tài sản:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
i) Tái phạm nguy hiểm” Đối chiếu với điều luật viện dẫn trên, xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Huỳnh L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật; Đối với bị cáo Nguyễn Chí C có nhân thân rất xấu vì tại Bản án số 05/2018/HSST ngày 05/01/2018 của TAND tỉnh Gia Lai xử phạt bị cáo 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, có tình tiết định khung tăng nặng là “Tái phạm nguy hiểm”, bị cáo chấp hành án xong ngày 20/3/2023 chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội, nên bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo L là nghiêm trọng và hành vi phạm tội của bị cáo C thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại nơi xảy ra tội phạm, gây tâm lý hoang mang 4 trong quần chúng nhân dân. Mặc dù, các bị cáo đều nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp hậu quả, thực hiện đến cùng hành vi của mình. Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, với mục đích cướp giật tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân của mình, nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự phân công cụ thể cho từng bị cáo. Bị cáo C tham gia vai trò là người đứng đầu khởi xướng và thực hiện việc chiếm đoạt tài sản nên cần có hình phạt tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội. Bị cáo L tham gia vai trò tích cực, chỡ bị cáo C xem xét và chờ C thực hiện xong hành vi chiếm đoạt tài sản liền nhanh chóng điều khiển xe tẩu thoát.
[4] Từ các phân tích trên, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đối với từng bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng mức án nghiêm và tương xứng với từng bị cáo để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răng đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết.
[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo C và L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mỗi bị cáo đã khắc phục cho bị hại số tiền 5.000.000 đồng và được bị hại chị Phạm Ngọc H có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo L sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, khi lượng hình, Tòa án có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
[7] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận của bị cáo L và C số tiền 10.000.000 đồng (mỗi bị cáo 5.000.000 đồng) khắc phục T bộ thiệt hại, nên chị H không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.
[9] Về vật chứng:
Đối với 01 nón bảo hiểm màu trắng, 01 cái quần Jean dài màu xám đen qua sử dụng, 01 cái áo thun nam cổ tròn dài tay, 01 áo khoát nam màu đen; 01 cây búa tạ đã qua sử dụng dài 34cm; 01 phong bì màu trắng hình chữ nhật niêm phong kín dán lại, bên trong phong bì có chứa 03 đoạn kim loại màu vàng có gắn hột màu trắng, kiểu lắc đeo tay không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Airblade biển kiểm soát 81D1-011… do bị cáo C mượn của anh Nguyễn Tuấn A. Tại phiên tòa anh Tuấn A xin nhận lại. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của anh Tuấn A và khi cho mượn không biết các bị cáo dùng vào việc phạm tội. Do đó, cần giao trả lại cho anh Tuấn A là có cơ sở.
[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Chí C.
- Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Huỳnh L.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Chí C và Nguyễn Huỳnh L phạm tội " Cướp giật tài sản ".
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí C 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày 10/8/2023.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh L 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày 07/8/2023.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 nón bảo hiểm màu trắng có 02 sọc đỏ, 01 sọc màu xám ở giữa, phía sau nón có chữ PRUDENTIAL; 01 áo khoác nam màu đen, có mũ trùm đầu, áo thun có in chữ DIOR đã qua sử dụng; 01 cái áo thun nam cổ tròn dài tay màu đen, trước ngực có chữ DSQUARED2MILAND đã qua sử dụng;
01 cái quần Jean dài màu xám đen đã qua sử dụng; 01 cây búa tạ đã qua sử dụng, đầu búa bằng kim loại (11cm x 4,5cm x 4,5m), cán búa bằng gỗ dài 34cm, trên cán búa có nhiều vết cắt, vết trầy xước; 01 phong bì màu trắng hình chữ nhật niêm phong kín dán lại, mặt trước phong bì niêm phong có chữ CÔNG AN TỈNH CÀ MAU, CÔNG AN HUYỆN NĂM CĂN; mặt sau phong bì có chữ GIẤY NIÊM PHONG được đánh ký hiệu M1; chữ ký và họ tên của những người sau: Huỳnh Văn Phước, Phan Trung Hiếu, Lê Minh Toán cùng 04 dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Năm Căn. Bên trong phong bì có chứa 03 đoạn kim loại màu vàng có gắn đá màu trắng, kiểu lắc đeo tay.
Hoàn trả cho anh Nguyễn Tuấn A 01 xe mô tô Airblade màu xám, biển kiểm soát 81D1-011…;
(Các vật chứng trên thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/12/2023 giữa Công an huyện Năm Căn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn).
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo C và L mỗi người phải nộp 200.000 đồng.
- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 6 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
- Bị cáo C và bị cáo L, bị hại chị H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà T và anh Tuấn A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 03/2024/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 03/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về