Bản án 45/2023/HS-ST về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2023/TLST-HS, ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2023/QĐXXST-HS ngày 11/8/2023 đối với bị cáo:

Dương Trung K, Sinh ngày: 29/12/2001; Nơi sinh: thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Quang Y và bà: Phạm Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 12/4/2023 đến nay, hiện tại ngoại tại địa phương (có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh Nguyễn Văn T; sinh năm 1986; Nghề nghiệp: Kinh doanh điện thoại; Trú tại: Số 93A, đường Trung Tiết, phường T, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

Anh Nguyễn Hữu V; sinh năm 1987; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trú tại: số 195, đường N, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Dương Quang Y; sinh năm: 1977; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trú tại: Số 10, ngách 02, ngõ 11, đường đường N, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt).

* Người làm chứng: Anh Phan V Đ; sinh năm: 1993; Trú tại: thôn Q, xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

Chị Phạm Thị H; sinh năm: 1979; Trú tại: Số A, ngách B, ngõ C, đường đường N, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong ngày 10/02/2023, trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, Dương Trung K đã 02 lần thực hiện hành vi Cướp giật tài sản của người khác, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 10/02/2023, Dương Trung K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 38P1 - 681.73 của anh Dương Quang Y (sinh năm 1977; trú tại phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, là bố của K, anh Yên không biết việc K lấy xe để sử dụng) đến cửa hàng cầm đồ của anh Nguyễn Hữu V (sinh năm 1987; trú tại phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) ở địa chỉ số 195 đường N thuộc phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh để cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng của K. Sau khi thỏa thuận và ký hợp đồng cầm đồ, anh V chuyển khoản số tiền 9.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng MB Bank số 0947210562, chủ tài khoản DUONG TRUNG KIEN. Sau đó, K mượn lại chiếc điện thoại trên để chơi game thì anh V đồng ý cho K ngồi tại cửa hàng để chơi. K ngồi tại góc nhỏ giữa cổng phụ bên trái cổng phụ của quán và khu vực dựng xe mô tô, sử dụng tài khoản ngân hàng nạp số tiền 8.900.000 đồng vào tài khoản đánh bạc qua mạng. Quá trình chơi do bị thua nên K trả điện thoại cho anh V và trở về lấy tiền tiết kiệm được 4.000.000 đồng và đưa cho anh V nhờ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của K rồi tiếp tục mượn lại điện thoại để chơi. K tiếp tục ngồi tại vị trí ban đầu để đánh bạc qua mạng. Quá trình K ngồi chơi, anh V đi vào phòng khách uống nước và đi về phía khu vực chân cầu thang để cất đồ đạc. Lúc này, K nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của anh V nên K nhanh chóng cầm điện thoại di động đi ra ngoài và điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Khi anh V ở trong nhà nghe thấy tiếng động cơ xe mô tô nên chạy ra kiểm tra thì thấy K đang điều khiển xe chạy nhanh trên đường . Anh V gọi điện thoại và nhắn tin qua ứng dụng Facebook Messenger yêu cầu K trả lại điện thoại, K hẹn trước 14 giờ sẽ trả lại điện thoại nhưng anh V không đồng ý và yêu cầu trả luôn nên K cắt liên lạc với anh V.

Lần thứ hai: Sau khi cướp giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng từ anh V, K tiếp tục đánh bạc qua mạng và thua hết số tiền đã nạp nên khoảng 12 giờ 15 phút ngày 10/02/2023, K điều khiển xe mô tô đến cửa hàng mua bán điện thoại Phú Thành của anh Nguyễn Văn T (sinh năm 1986; trú tại phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) ở số 120 đường Nguyễn Công Trứ, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Khi đến cửa hàng, K để xe mô tô ở ngõ nhỏ bên phải của cửa hàng rồi đi bộ vào trong. Lúc này, trong cửa hàng có anh Nguyễn Văn T và nhân viên là anh Phan Vũ Đệ (sinh năm 1993; trú tại xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh). Sau khi thỏa thuận, anh T đồng ý mua chiếc điện thoại trên với số tiền 8.000.000 đồng và chuyển khoản số tiền trên vào tài khoản ngân hàng MB Bank số 0947210562, chủ tài khoản DUONG TRUNG KIEN. Sau đó, K mượn lại chiếc điện thoại trên để chơi game thì anh T đồng ý đưa điện thoại cho K và cho K ngồi tại cửa hàng để chơi. K sử dụng tài khoản nạp số tiền 8.000.000 đồng vào tài khoản đánh bạc qua mạng rồi ngồi ngồi chơi tại cửa hàng. Khoảng 30 phút sau, K thua hết số tiền đã nạp nên K trả lại điện thoại cho anh T sau đó mượn lại để gọi điện thoại cho mẹ là chị Phạm Thị Hà (sinh năm 1979; trú tại phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) và bố là anh Dương Quang Y (sinh năm 1977; trú tại phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) để xin tiền chuộc điện thoại nhưng bố mẹ K không đồng ý. Khi K đang gọi điện thoại thì anh T yêu cầu K đi vào trong cửa hàng nhưng K nói với anh T “Anh cứ vô đi, em gọi điện thoại cho mẹ xong em vô, camera đầy ri em không trốn được mô”. Do có khách vào cửa hàng nên anh T đi vào bên trong và nhờ anh Phan Vũ Đệ để ý K. Lúc này, K nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên nên K bỏ điện thoại vào trong túi, điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Khi anh Đệ phát hiện K bỏ chạy thì vào nói với anh T, anh T sử dụng xe đạp điện để đuổi theo K tuy nhiên không tìm thấy K. Khoảng 14 giờ cùng ngày, K quay lại cửa hàng cầm đồ của anh Nguyễn Hữu V trả lại chiếc điện thoại cho anh V.

Kết luận định giá tài sản số 08/KL-ĐGTS ngày 21/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Hà Tĩnh kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro max màu vàng, không gắn sim, số Imei 1:

3539471000014617, số Imei 2: 353947100317093, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm tháng 2/2023 là 10.500.000 đồng.

Bản cáo trạng số 44/CT-VKS-TPHT ngày 11/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Dương Trung K về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Trung K từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng của vụ án.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Trung K hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận, trong phần lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra, bị hại anh Nguyễn Hữu V, anh Nguyễn Văn T trình bày: bị cáo Dương Trung K đã bồi thường đầy đủ cho bị hại anh Nguyễn Hữu V số tiền 9.000.000 đồng, anh Nguyễn Văn T số tiền 8.000.000 đồng. Anh V, anh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên và cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

2.1.Tại phiên tòa, Dương Trung K khai nhận: Trong ngày 10/02/2023, Dương Trung K đã 02 lần thực hiện hành vi cướp giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro max màu vàng trị giá 10.500.000 đồng mà K đã cầm cố cho anh Nguyễn Hữu V và tiếp tục bán cho anh Nguyễn Văn T. Tổng trị giá tài sản K cướp giật là 21.000.000 đồng, thu lợi bất chính 17.000.000 đồng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ kết tội Dương Trung K phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.

2.2.Trong vụ án này, có anh Dương Quang Y là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 38P1 - 681.73 mà Dương Trung K sử dụng làm phương tiện phạm tội. Tuy nhiên, xét thấy anh Yên không biết việc K sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập hình thức xử lý đối với anh Dương Quang Y là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

2.3. Đối với hành vi đánh bạc qua mạng của Dương Trung K, K không nhớ ứng dụng, tài khoản, mật khẩu mà K đã đánh bạc. Cơ quan điều tra đã tiến hành tra cứu thông tin tài khoản ngân hàng mà K đã chuyển tiền để đánh bạc, tuy nhiên qua xác minh thông tin tại địa phương không có những người này. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý là phù hợp.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tạm điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã “Bồi thường thiệt hại”, “Thành khẩn khai báo”, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần với số tiền tương đối lớn. Vì vậy, cần lên một mức án nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo việc răn đe và giáo dục đối với bị cáo. Tuy nhiên, khi xem xét lượng hình cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo bởi: sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, khắc phụ hậu quả và bị hại có đơn xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử Quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Xét luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị đối với bị cáo Dương Trung K là thỏa đáng.

[6].Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho bị hại anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Hữu V. Anh V, anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường gì nên miễn xét.

[7]. Về xử lý vật chứng:

7.1. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ tại Dương Trung K 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 38P1 - 681.73 và trả lại cho chủ sở hữu là anh Dương Quang Y là phù hợp. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng của bị cáo Dương Trung K được thu giữ từ anh Nguyễn Hữu V là công cụ, phương tiện mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 hợp đồng cầm đồ thu giữ tại anh Nguyễn Hữu V theo quy định tại khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, cần tịch thu lưu giữ hồ sơ vụ án.

[8].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, Tuyên bố Dương Trung K phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Dương Trung K 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng của bị cáo Dương Trung K là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; Áp dụng khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01hợp đồng cầm đồ thu giữ tại anh Nguyễn Hữu V.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2023 giữa cán bộ Công an thành phố Hà Tĩnh và cán bộ Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh và Biên bản bàn giao hồ sơ vụ án ngày 12/7/2023 giữa cán bộ Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh với cán bộ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh).

Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Dương Trung K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2023/HS-ST về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:45/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;