TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LV, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 03/2024/DS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ TÀI SẢN
Vào các ngày 01/02/2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện LV, tỉnh Đồng Tháp xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 229/2022/TLST-DS, ngày ngày 13 tháng 6 năm 2022, về việc “Tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST-DS, ngày 15/01/2024 giữa.
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm: 1967; địa chỉ cư trú: Số 365A, ấp Hưng Thành Đông, xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
2. Bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm: 1974; ông Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1971; Cùng địa chỉ cư trú: Số 365, ấp Hưng Thành Đông, xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của bà H, ông A có chị Huỳnh Thị Cẩm Tú, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: Số 67B, khóm Bình Thạnh 2, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 18/4/2023).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Trần Thị Thu Ng, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Số 365A, ấp Hưng Thành Đông, xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Ủy ban nhân dân huyện LV;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Nhanh – Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện. Địa chỉ: Khóm Bình Thạnh 1, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Ông Trần Văn C, bà Trần Thị H, ông Nguyễn Hoàng A, chị Huỳnh Thị Cẩm Tú và Chị Trần Thị Thu Ng có mặt.
Ủy ban nhân dân huyện LV có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện; đơn khởi kiện bổ sung; biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản H giải và tại phiên tòa ông Trần Văn C là nguyên đơn trình bày:
Cha của ông C là ông Trần Văn Ch, mẹ là bà Nguyễn Thị T sống với nhau có 08 người con gồm: Trần Thị P, Trần Văn H, Trần Thị Th, Trần Văn R, Trần Văn C, Trần Thị M, Trần Thị H, Trần Thị Tuyết N. Lúc còn nhỏ các anh, em ông C sống chung với ông Ch, bà T, sau đó lớn lên các anh, em lần lượt có gia đình và sống riêng, chỉ có ông C và bà H sống cùng ông Ch. Bà T và ông Ch có hứa cho ông C phần đất diện tích 1.000m2, đất ở phía sau hè có lối đi và ông C đã cất nhà và ở riêng nhưng Ch tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2000 bà H có chồng và không còn sống chung với ông Ch, bà T nữa.
Năm 2009 bà H gặp khó khăn nên trở về xin ông Ch cho cất nhà dưới mé sông để ở, bà H lợi dụng ông Ch già yếu lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Ch đi sang tên cho bà H đứng tên và bao trùm luôn phần đất mà ông C đang ở. Phần đất này ngày trước ông C có đóng tiền cho cha, mẹ ông C và ông C có đóng thuế có ông Nguyễn Văn L chứng kiến. Sau khi bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến ngày 21/7/2015 thì bà H tặng cho đất lại cho ông Nguyễn Hoàng A đứng tên, trong đó có phần đất của cha, mẹ ông C cho, thửa đất hiện nay là thửa 177, tờ bản đồ số 31, do ông Nguyễn Hoàng A đứng tên quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Năm 2011 ông Nguyễn Hoàng A là chồng của bà H tranh chấp quyền sử dụng đất với ông C dùng cái len đánh ông C bất tỉnh. Đến năm 2015 ông A đã đốn hết 1.000 cây bạch đàn của ông C trồng từ năm 1990 đến năm 2015. Tạm tính giá trị mỗi cây bạch đàn 21 năm tuổi giá 200.000đồng/cây thành tiền 1.000 cây x 200.000đồng = 200.000.000đồng.
Tiền ông C vay, mượn mướn chở đất đắp nền nhà vào năm 1990 là 40.000.000đồng, ông C phải đóng lại mỗi tháng là 800.000đồng/tháng đến năm 1994 mới trả dứt nợ.
Nay ông Trần Văn C yêu cầu Tòa án nhân dân huyện LV giải quyết: Buộc bà Trần Thị H và ông Nguyễn Hoàng A phải có nghĩa vụ giao trả lại cho ông C phần đất theo đo đạc thực tế diện tích 1.439,9m², thuộc thửa số 177, tờ bản đồ số 31 do ông Nguyễn Hoàng A đứng tên quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Buộc Ông A, bà H bồi thường cho ông Cường, bà Ngân 200.000.000đồng và phải trả lại cho ông Cường, bà Ngân số tiền mướn chở đất đắp nền nhà vào năm 1990 là 40.000.000đồng, đồng thời phải trả lại mặt bằng đất như hiện trạng đất như lúc ban đầu.
Ông C thống nhất với sơ đồ đo đạc ngày 19/8/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV, thống nhất theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/5/2019 và ngày 04/8/2020 của Tòa án; Biên bản định giá tài sản ngày 13/5/2021 của Hội đồng định giá huyện.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của ông Cường: Bản photo tờ di chúc, tường trình của ông Trần Văn H.
Tại Văn bản ghi ý kiến; biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản H giải và tại phiên tòa chị Huỳnh Thị Cẩm Tú đại diện theo ủy quyền của bà H, ông A là bị đơn trình bày:
Cha của ông C là ông Trần Văn Ch và mẹ là bà Nguyễn Thị T, có 08 người con là Trần Thị P, Trần Văn H, Trần Thị Th, Trần Văn R, Trần Văn C, Trần Thị M, Trần Thị H, Trần Thị Tuyết N. Lúc nhỏ các anh chị em sống chung với cha mẹ, sau khi lớn lên các anh chị em lần lượt có gia đình rồi ra sống riêng chỉ còn lại bà H sống chung với cha mẹ. Bà H sống chung với cha mẹ từ nhỏ đến khi có chồng vẫn sống chung với cha mẹ đến nay. Việc ông C trình bày là được cha, mẹ cho diện tích 1300m² và ông C trồng 1000 cây bạch đàn bà H không đồng đồng ý. Bà H sống chung với cha mẹ từ trước đến nay hoàn toàn không có nghe nói đến việc này, trên đất không có cây trồng gì cả. Phần đất thuộc thửa đất số 177, tờ bản đồ số 31, diện tích 1438,4m2 hiện do ông Nguyễn Hoàng A đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là của cha mẹ bà H là ông Ch được cấp quyền sử dụng năm 1992, đến năm 2005 ông Ch tặng cho lại cho bà Trần Thị M, nhưng thực tế ông Ch vẫn sử dụng phần đất này, đến năm 2009 bà M làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất lại cho ông Ch, Đến năm 2010 ông Ch tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất lại cho bà H. Bà H có đưa lại tiền cho các chị em để được sử dụng đất này. Cụ thể: trả cho bà M 50.000.000đồng; trả cho bà P 20.000.000đồng; trả cho bà Th 20.000.000đồng và trả cho bà Tuyết 30.000.000đồng. Do ông A là chồng bà H phải chuyển nhượng đất của cha mẹ ông A cho ông A để lấy liền đưa cho bà H trả cho hàng thừ kế, nên sau khi được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà H tặng cho lại cho ông A năm 2015. Phần đất này bà H và ông A quản lý sử dụng liên tục từ năm 2009 đến nay. Hiện trạng đất đã lên vườn và trồng cây đúng như biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án.
Khi được tặng cho bên phía ông C không có tranh chấp, đến năm 2019 thì ông C mới tranh chấp ra Tòa án đến nay. Theo yêu cầu ông C đối với phần đất, bà H và ông A không đồng ý vì bà H và ông A nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đúng theo trình tự, quy định pháp luật. Đối với phần yêu cầu bà H bồi thường thiệt hại tài sản là cây trồng số tiền 200.000.000 đồng (1000 cây bạch đàn) và tiền san lấp đất 40.000.000 đồng, bà H và ông A không đồng ý, hoàn toàn không có việc ông A chặt phá cây Bạch đàn của ông Cường. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông C thì bà H yêu cầu ông C trả giá trị cây trồng theo giá mà Hội đồng định giá đã định.
Chứng cứ chứng minh: Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất từ ông Ch cho bà H, hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất từ bà H cho ông A và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông A và bà H thống nhất với sơ đồ đo đạc ngày 19/8/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV, thống nhất theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/5/2019 và ngày 04/8/2020 của Tòa án; Biên bản định giá tài sản ngày 13/5/2021 của Hội đồng định giá huyện.
Tại đơn khởi kiện; biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản H giải và tại phiên tòa Chị Trần Thị Thu Ng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Chị Ngân thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của ông Cường, không trình bày gì thêm.
Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, kể từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử đều đúng quy định của pháp luật.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng quy định của pháp luật.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cường, chị Ngân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn thì Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Tranh chấp về dân sự quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản”, đất tranh chấp và địa chỉ của bị đơn tại huyện LV, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện LV, theo quy định tại khoản 2, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ủy ban nhân dân huyện LV có đơn xin vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Ủy ban nhân dân huyện LV.
[3] Nội dung tranh chấp:
[3.1] Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều trình bày thống nhất là cha của ông Cường, bà H là ông Trần Văn Ch và mẹ là bà Nguyễn Thị T. Ông Ch, bà T có 08 người con gồm: Trần Thị P, Trần Văn H, Trần Thị Th, Trần Văn R, Trần Văn C, Trần Thị M, Trần Thị H và Trần Thị Tuyết N.
Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Ch (cha của các đương sự) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1992.
[3.2] Xét lời trình bày của ông C về việc ông Ch có hứa cho diện tích đất 1.000m2, vị trí đất ông Ch cho là vị trí ông C tranh chấp với bà H hiện nay thửa 177, tờ bản đồ số 31, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1438,4m2 đất lúa (hiện nay ông Nguyễn Hoàng A đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông C không xuất trình được giấy tờ thỏa thuận hay chứng cứ gì để chứng minh cho lời trình bày của ông C là có căn cứ và hợp pháp.
[3.3] Theo tờ di chúc ngày 01/7/2001 ông C xuất trình thể hiện ông được cho diện tích 2.600m2 đất ruộng. Tại phiên tòa, ông C cũng xác định là ông đã được nhận diện tích này rồi và ông cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xong.
[3.4] Ông C cho rằng năm 2009 bà H gặp khó khăn nên trở về xin ông Ch cho cất nhà dưới mé sông để ở, bà H lợi dụng ông Ch già yếu lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Ch đi sang tên cho bà H đứng tên và bao trùm luôn phần đất mà ông C đang ở là Ch phù hợp. Bởi, căn cứ theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 177, tờ bản đồ số 31, diện tích 1438,4m2 thể hiện năm 2010 ông Ch tặng cho quyền sử dụng đất lại cho bà H, hồ sơ có chữ ký của các bên, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Điều này còn thể hiện tại biên bản lấy lời khai của ông Trần Văn Ch ngày 23/5/2019 do Tòa án lập có nội dung “..ông Ch xác định thửa 177 ông Ch đã cho bà H…”.
[3.5] Sau khi bà H được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 177, tờ bản đồ số 31 thì bà H làm thủ tục tặng cho lại cho ông A (chồng bà H) năm 2015, hồ sơ có chữ ký của các bên, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
[3.6] Xét lời trình bày của ông C cho rằng năm 2011 ông Nguyễn Hoàng A là chồng của bà H tranh chấp quyền sử dụng đất với ông C dùng cái len đánh ông C bất tỉnh. Năm 2015 ông A đã đốn hết 1.000 cây bạch đàn của ông C trồng từ năm 1990 đến năm 2015. Tạm tính giá trị mỗi cây bạch đàn 21 năm tuổi giá 200.000đồng/cây thành tiền 1.000 cây x 200.000đồng = 200.000.000đồng. Tiền ông C vay, mượn mướn chở đất đắp nền nhà vào năm 1990 là 40.000.000đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông C không xuất trình được chứng cứ gì về việc ông A chặt bạch đàn ông C có báo với chính quyền địa phương không, chính quyền địa phương có lập biên bản không và các chứng cứ khác để chứng minh cho lời trình bày của ông C là có căn cứ và hợp pháp.
[3.7] Xét quá trình sử dụng đất tranh chấp, trong quá quá trình giải quyết vụ án, căn cứ biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa xác định phần đất tranh chấp ông C từ trưới đến nay không có sử dụng và trên đất cũng không có nhà của ông C như lời trình bày của ông Cường. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án thì trên đất hiện nay có các cây trồng gồm: 23 cây dừa loại A, 60 cây dừa loại B, 19 cây mít loại B, 06 cây chanh loại B, 12 cây gáo và 458 cây chuối là do bà H có trồng.
[3.8] Từ các căn cứ và phân tích nêu trên, xét yêu cầu khởi kiện của ông Cường, chị Ngân là không có căn cứ, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cường, chị Ngân.
[3.9] Xét đề nghị của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Tiền án phí dân sự sơ thẩm: Ông Cường, chị Ngân không được chấp nhận yêu cầu, nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Do ông Cường, chị Ngân có sổ hộ nghèo và có đơn xin miễn tiền án phí, Hội đồng xét xử miễn tiền án phí cho ông Cường, chị Ngân. Ông Cường, chị Ngân được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[5] Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá: Ông Cường, chị Ngân không được chấp nhận yêu cầu, nên phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá theo quy định tại khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự (đã thu và chi xong).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 95, Điều 166, Điều 170, Điều 203 Luật đất đai; Điều 166 Bộ luật dân sự. Căn cứ khoản 2, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C, Chị Trần Thị Thu Ng.
2. Tiền án phí dân sự sơ thẩm: Miễn tiền án phí cho ông Trần Văn C, Chị Trần Thị Thu Ng.
Ông Trần Văn C được nhận lại tiền tạm ứng án phí 1.875.000 đồng (Một triệu T trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000185, ngày 27/3/2019 và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo lai thu số 0016496, ngày 13/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện LV.
3. Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá: Ông Trần Văn C, Chị Trần Thị Thu Ng chịu 3.534.000 đồng (Ba triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn đồng) (đã thu và chi xong).
Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự;
Bản án 03/2024/DS-ST về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản
Số hiệu: | 03/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về