Bản án 03/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THUỶ, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 03/2021/HSST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2020/HSST, ngày 22/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST- HS ngày 29/12/2020 đối bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn A.Tên gọi khác: Bốn ; Giới tính: Nam; Sinh ngày 25 tháng 7 năm 1994 tại xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa Nơi cư trú: Thôn Q, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ học vấn: 8/12.Con ông: Nguyễn Văn D (Đã chết)và bà: Bùi Thị L; Sinh năm: 1951; Vợ: Triệu Thị X - sinh năm: 1997.Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ 29/9/2020 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện C,tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

A Trương ThA B- Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

A Cao Như H – Thôn B , xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.Vắng mặt

A Bùi Văn T – Thôn Th, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

A Bùi Văn N – Thôn Th, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

Chị Triệu Thị X – Thôn Q, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt

 A Nguyễn Văn D – Thôn Đ, thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

A Trịnh Công H – Khu phố 5, thị trấn C, huyện B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

A Đinh Văn H- Thôn S, xã B, huyện B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 29/9/2020, Nguyễn Văn A điều khiển xe moto nhãn hiệu YAMAHA EXCITER BKS 36G5-097.84 đến nhà một người ở thôn T, xã C để uống rượu. Tại đây, A có gặp người tên Bùi Văn T, SN 1994 cùng là người thôn. Sau khi uống rượu xong, do xe hết xăng, Bùi Văn T nhờ Nguyễn Văn A chở về. Trên đường, A hỏi T “có biết Nhà văn hóa thôn C ở đâu không?”, T trả lời “có”. Sau đó, A rủ T“có kiếm ít về dùng không?” (Đi mua ma túy về để sử dụng). T trả lời “không có tiền”. A nói “tôi có tiền” rồi điều khiển xe đến khu vực Nhà văn hóa thôn C, xã C hỏi mua 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) ma túy đá của một người phụ nữ (A không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể). Người này đồng ý và đưa cho A 01 (Một) túi nilon màu trắng tại mép có viền kẻ màu đỏ bên trong có chứa ma túy đá. Lúc này, T đứng cách A và người phụ nữ kia khoảng 2-3m. Sau khi mua được ma túy, A điều khiển xe đi đến khu vực thôn B, xã C thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, Nguyễn Văn A đã tự nguyện giao nộp 01(Một) túi nilon màu trắng, tại mép có viền kẻ màu đỏ, bên trong có chứa chất rắn màu trắng dạng tinh thể (Nghi là ma túy đá), còn Bùi Văn T bỏ chạy đi đâu không rõ.

Bản kết luận giám định số 2696/PC09, ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất rắn màu trắng, dạng tinh thể gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,180g (Không phẩy một tám không gam), loại Methamphetamine.

Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành xác minh đối với người có phụ nữ đã bán ma túy cho Nguyễn Văn A vào ngày 29/9/2020, nhưng không có đủ cơ sở để xác minh, xác định đối tượng.

Đối với Bùi Văn T, SN 1994, trú tại thôn T, xã C, người đi cùng với Nguyễn Văn A , Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành điều tra, xác minh. Nhưng xét thấy tài liệu điều tra không có đủ căn cứ để xử lý đối với Bùi Văn T. Do đó, tách hồ sơ, tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xem xét xử lý,ở vụ việc khác.

Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, bên trong có chứa 0,168g chất rắn màu trắng dạng tinh thể là mẫu vật còn lại sau giám định đang được bảo quản tại Kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện C;

- Đối với chiếc xe moto nhãn hiệu YAMAHA EXCITER BKS 36G5- 097.84 là tài sản của chị Triệu Thị X, chị X không biết việc A sử dụng xe để tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, ngày 10/12/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã trả lại chiếc xe cho chị Triệu Thị X.

Tại bản cáo trạng số 05/2020/ CT-VKS-MT ngày 21/12/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã quyết định truy tố Nguyễn Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2; Điều 51, Điều 38, Điều 47- BLHS, Điều 106, Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 xử phạt Nguyễn Văn A từ 15 tháng – 18 tháng tù. Về vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn A thừa nhận hành vi phạm tội được nêu trong bản cáo trạng là đúng.

Người làm chứng cũng có lời khai phù hợp với các tình tiết nêu trong bản cáo trạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, trA luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên.Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 h 30 phút ngày 29/9/2020, tại thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Văn A đã có hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng 0,180g (Không phẩy một tám không gam), loại Methamphetamine. nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của Nguyễn Văn A đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tủy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố Nguyễn Văn A là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc,cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tiền án, tiền sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. [5].Về vật chứng và xử lý vật chứng: Gồm một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túycó trọng lượng còn lại sau giám định là 0,168 g loại Methamphetamine nên tịch thu tiêu hủy.

[6].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 47- BLHS, Điều 106; Điều 136; Điều 333 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 15 (Mười lăm) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 29/9/2020.

Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có 0,168g ma túy là mẫu vật còn lại sau giám định, được đóng dấu niêm phong bởi các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký của Nguyễn Trần Đ, Lưu Bình N, Quách Bá T (Theo biên bản giao nhận tang vật ngày 22 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C) Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn A phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;