Bản án 03/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 129/2020/TLST-HS ngày 30/11/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HS ngày 30/12/2020 đối với các bị cáo:

1.1 Trịnh Văn S; S ngày 15/5/1982 tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp 4, xã Nha Bích, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước; Nghề ngHie: làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đồng Hữu Hội ( Chết) và bà Trịnh Thị Thúy ( Chết) ; vợ Hà Thị Thanh Hải S năm 1983, bị cáo có 02 người con. Lớn nhất S năm; 2007, nhỏ nhất S năm; 2011 Tiền án: không, Tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 24 tháng 9 năm 2020 sau đó tạm giam đến ngày 20/11/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

1.2 Lê V A S ngày 10/02/1970 tại Thái Bình ; Tên gọi khác: không;Nơi cư trú: Xóm Tây Hòa, Thôn Tri Lễ, xã Vũ Lễ, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Nghề ngHie: làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Viết Kích (Chết), và bà Đỗ Thị Hoan, S năm 1930; vợ Vũ Thị Lụa: S năm: 1974; bị cáo có 02 người con; lớn S năm 1993 nhỏ; S năm 1999; Tiền án; không; tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 24 tháng 9 năm 2020 sau đó tạm giam đến ngày 20/11/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

1.3 Trịnh Văn Hie S ngày; 10/12/ 1975 tại Thanh Hóa ; Tên gọi khác: không;Nơi cư trú: Xóm 4, Cầu Thôn, xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; Nghề ngHie: làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Văn Yên (Chết), và bà Đỗ Thị Chi, S năm 1952; vợ: Vũ Thị Duyên: S năm: 1974; bị cáo có 02 người con; lớn S năm 1995 nhỏ S năm 1999; Tiền án; không; tiền sự: không: Bị tạm giữ từ ngày 24 tháng 9 năm 2020 sau đó tạm giam đến ngày 20/11/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

1.4 Đặng Thị H S ngày 15/7/ 1965 tại Nghệ An ; Tên gọi khác: không:

ĐKHKTT: Khối Vĩnh Lâm, phường Đông Vĩnh, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An:

Nơi cư trú: Tổ 7, ấp An Lâm, xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; Nghề ngHie: làm thuê; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Danh Tường (Chết), và bà Trần Thị Hợp ( Chết) chồng: Bùi Xuân Quang S năm: 1962 (đã ly hôn); bị cáo có 01 người con S năm 1987; Tiền án: không; Tiền sự: không.

Nhân thân ngày 09/3/1998 TAND tỉnh Nghệ An xử phạt 03 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Bị tạm giữ từ ngày 24 tháng 9 năm 2020 sau đó tạm giam đến ngày 20/11/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh Các bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H đều là những người làm công cho anh Trần Hoàng Tâm vì anh Tâm đang đầu tư xây trại nuôi heo ở ấp Tà Tê 2, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Khoảng 20 giờ ngày 23/9/2020 sau khi ăn tối và có nhậu xong, Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H cùng rủ nhau chơi đánh bài phỏm thắng thua bằng tiền tại láng trại của Trịnh Văn Hie, S đi mua 01 bộ bài tây, thuốc lá và nước uống hết 90.000đ. Hie lấy một cái mền của Hie trải ra để chia bài và chơi. Nếu ai ù thì được những người còn lại chung số tiền 100.000đ, nếu không có ai ù thì tính số điểm. Người ít điểm nhất thắng thì người thua nhì chung 20.000đ, người thua thứ ba chung 40.000đ, người thua chót chung 60.000đ. Ngoài ra trong ván bài, nếu ai ăn bài của người nào thì thì người đó phải chung cho người ăn theo thứ tự bị ăn là lá bài thứ nhất 20.000đ, lá bài thứ hai 40.000đ, lá bài thứ ba là 60.000đ.

Các bị cáo chơi đến 23 giờ 40 phút cùng ngày, bị lực lượng Công an huyện Lộc Ninh phối hợp với Công an xã Lộc Thành kiểm tra phát hiện bắt quả tang các bị cáo đang đánh bạc thắng thua bằng tiền và thu giữ tại chiếu bạc 01 bộ bài tây 52 lá, 01 cái mền vải bông, số tiền 1.510.000đ.

Thu trên người Trịnh Văn Hie 3.500.000đ, Lê V A 7.000.000đ và Đặng Thị H 3.000.000đ, Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Ninh và tại phiên tòa; Các bị cáo thừa nhận đã cùng nhau thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền tại láng trại Trịnh Văn Hiethuộc ấp Tà Tê 2, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Trịnh Văn S thừa nhận sử dụng số tiền 410.000đ, Lê V A sử dụng số tiền 7.330.000đ Trịnh Văn Hie sử dụng 3.730.000đ và Đặng Thị H sử dụng số tiền 3.540.000đ để đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo dùng vào mục đích đánh bạc là 15.010.000đ Bản cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố các bị cáo Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H phạm tội “Đánh bạc” Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17,58, 35 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo:Trịnh Văn S, từ 20.000.000đ đến 30.000000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1, Điều 51, Điều 17,58, 35 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê V A từ 20.00.000đ đến 30.000000đ.

Xử phạt Trịnh Văn Hie 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 17,58, 35 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Đặng Thị H từ30.000.000đ đến 35.000.000đ.

Vật chứng vụ án đề nghị xử lý nhưđã nêu trong bản cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo không tranh luận, không kêu oan Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án:

Các bị cáo xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với thời gian, địa điểm nơi xảy ra vu án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đầy đủ cơ sở khách quan để xác định:

Khoảng 20 giờ ngày 23/9/2020 Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H cùng rủ nhau đánh bạc thắng thua bằng tiền cho đến 23 giờ 40 phút thì bị bắt quả tang và thu giữ được số tiền tại chiếu bạc và số tiền mà các bị cáo đang cất giữ trên người sẽ dùng vào việc đánh bạc nếu bị thua tổng cộng là 15.010.000đ Điều 321 bộ luật hình sự quy định: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ hoặc dưới 5.000.000đ nhưng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại điều 322 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 322 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000đ đến 100.000.000đ, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố các bị cáo về tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Tại thời điểm các bị cáo thực hiện việc đánh bạc các bị cáo đều là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự do vậy việc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm pháp luật của mình.

Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn. Khi thực hiện hành vi các bị cáo đều là người thực hành. Biết rõ việc đánh bạc thắng thua bằng tiền bị pháp luật cấm nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện với mục đích là thông qua việc may rủi muốn nhanh chóng có được tiền mà không phải lao động.Vai trò của các bị cáo đều là người thực hành như nhau.

Tuy nhiên số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc có khác nhau bị cáo Lê V A sử dụng 7.330.000đ, bị cáo Trịnh Văn Hie sử dụng 3.730.000đ, bị cáo Đặng Thị H sử dung 3.540.000đ và bị cáo Trịnh Văn S sử dụng 410.000đ vào việc đánh bạc, căn cứ vào số tiền như trên khi áp dụng hình phạt hội đồng xét xử xem xét cụ thể hóa cho các bị cáo. Đối với bị cáo Ân số tiền sử dụng đánh bạc nhiều nhất so với các bị cáo trong vụ án nên hình phạt đối với Ân cao hơn, bị cáo Hie và H số tiền chênh lệch nhau không nhiều nên hình phạt là tương đương nhau. Bị cáo S sử dụng số tiền ít nhất 410.000đ hình phạt nhẹ nhất so với các bị cáo khác.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị tại địa phương.Do đó, cần có một hình phạt tương xứng với hành vi của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân:

Các bị cáo đều Ân, S, Hie là những người lao động làm công, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo S có mẹ ruột là người có công với cách mạng, được nhà nước tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng ba nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo H năm 1998 bị TAND tỉnh Nghệ An xử phạt 3 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành án xong và thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích thời gian đã lâu, lần phạm tội này không được xem là phạm tội lần đầu, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năng hối cải được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bô luật hình sự. Trong quá trình điều tra, các bị cáo đã bị tạm giam một thời gian tháng sau đó được Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với các bị cáo là phù hợp được chấp nhận.

[4] Về vật chứng vụ án:

Số tiền 15.010.000đ là tiền dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

 52 lá bài tây, 01 cái mền vải bông kích thước (1,6x2) mét là công cụ dùng vào việc phạm tội tịch thu tiêu hủy.

Điện thoại di động SamsungJ8 màu vàng đồng thu giữ của Trịnh Văn S, điện thoại nokia màu đen và điện thoại Vivo màu đen thu giữ của Trịnh Văn Hie, điện thoại Opop màu bạc thu giữ của Lê V A là tài sản hợp pháp của các bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả cho các bị cáo.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1 Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo: Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị H phạm tội“Đánh bạc”.

2 Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1 Điều 51, Điều 35,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê V A 30.000.000đ ( Ba mươi triệu) sung công quỹ nhà nước.

Xử phạt Trịnh Văn Hie 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu) sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 35,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Đặng Thị H 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu) sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 35.17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Trịnh Văn S 20.000.000đ (Hai mươi triệu) sung công quỹ nhà nước.

3 Về vật chứng vụ án:

Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu xung công quỹ nhà nước Số tiền 15.010.000đ( Mười lăm triệu, không trăm mười ngàn) Tịch thu tiêu hủy 52 lá bài tây đã qua sử dụng, 01 cái mền vải bông kích thước (1,6x2) mét (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0006793 ngày 08/12/2020 của Chi cục thi hành án huyện Lộc Ninh).

4 Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Trịnh Văn S, Lê V A, Trịnh Văn Hie và Đặng Thị Hmỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5 Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

371
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;