Bản án 03/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 156/2020/TLST-HS ngày 23/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2020/QĐXXST-HS ngày 29/12/2020 đối với bị cáo:

Đào Xuân L, sinh năm 1977 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn T, xã H, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Xuân H (đã chết) và bà Phạm Thị H; có vợ là Đinh Thị N, sinh năm 1982 (đã ly hôn) và 02 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/12/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và trả tự do tại phiên tòa. Ngày 15/11/2017 bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; bị bắt, tạm giữ ngày 07/10/2020, tạm giam từ ngày 13/10/2020 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1988; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07/10/2020, Đào Xuân L điều khiển xe máy nhãn hiệu LIFAN, biển kiểm soát 90H8-9143 đi từ nhà đến khu vực xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì gặp bạn mới quen khoảng 40 tuổi tên Đoán, trong khi nói chuyện Đoán nói với L:“Còn tiền không góp mấy chục nghìn đi mua quả hàng về chơi”, hiểu ý Đoán rủ góp tiền đi mua ma túy để cùng sử dụng, L đồng ý, nói:“Ừ tao còn mấy chục nghìn” rồi lấy ra 50.000 đồng đưa cho Đoán. Sau đó Đoán điều khiển xe máy chở L đi đến khu vực đường Lê Duẩn thuộc tổ 9, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý thì dừng lại, Đoán bảo L xuống xe đứng chờ rồi điều khiển xe máy đi tiếp. Một lát sau Đoán quay lại đưa cho L 01 gói giấy bạc màu vàng, biết đó là gói ma túy L liền cầm lấy cất vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc rồi cùng Đoán đi tìm nơi sử dụng. Khi vừa đi được một đoạn thì Đoán và L bị tổ công tác của Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý phát hiện thấy nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Lợi dụng lúc sơ hở, Đoán đã bỏ chạy thoát. Tại chỗ, L tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, L khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 ví giả da màu đen, 01 giấy CMND mang tên Đào Xuân L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, BKS: 90H8-9143.

Tại bản Kết luận giám định số 198/PC09-MT ngày 10/10/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,138 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 06/CT-VKS-PL ngày 21/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Đào Xuân L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Đào Xuân L, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Đào Xuân L từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đào Xuân L đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Đào Xuân L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 07/10/2020, tại khu vực tổ 9, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Đào Xuân L bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,138 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do đã từng bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã được miễn trách nhiệm hình sự khi xét xử) và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Trộm cắp tài sản” (đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có người thân (bố đẻ) là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân nghề nghiệp, thu nhập không ổn định và không có tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông theo bị cáo khai tên Đoán là người đã đi mua ma túy đưa cho bị cáo để cất giấu, do Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để điều tra, xác minh nhưng không xác định được đặc điểm, nhân thân và địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, BKS: 90H8-9143, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, do bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện để thực hiện tội phạm nên sẽ tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ nhựa màu đen, 01 ví giả da và 01 giấy CMND thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.

- Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đào Xuân L phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Đào Xuân L 01 (một) chiếc điện thoại di động NOKIA, vỏ nhựa màu đen, đã qua sử dụng, có số IMEI: 355481/05/427090/8; 01(một) ví giả da màu đen và 01(một) Chứng minh nhân dân số 168176727 mang tên Đào Xuân L, sinh năm 1977 do Công an tỉnh Hà Nam cấp ngày 05/04/2014.

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, màu nâu, đeo BKS: 90H8-9143, số máy: VLF1P50FMG-370002873, số khung: RL8DCG1DL71002873, xe đã qua sử dụng.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong, mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 198/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 23/12/2020.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đào Xuân L nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;