TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 03/2019/DS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2018/TLST-DS ngày 03/12/2018 về tranh chấp kiện đòi quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-DS ngày 03/6/2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
2. Ông Nguyễn Sỹ S, sinh năm 1960;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Sĩ N, sinh năm 1983;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
4. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Số 01 P, phường 1, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông S, anh N, chị T: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
(Theo Văn bản ủy quyền ngày 20/8/2015 và ngày 17/5/2019)
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
(Theo Văn bản ủy quyền ngày 12/3/2019)
- Người làm chứng:
1. Ông Đỗ Huy S1, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Xóm 4, thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Xóm 3, thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Duy S, sinh năm 1944;
Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 25/11/2018, bản tự khai và ý kiến tại các buổi làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là bà Vũ Thị T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Sỹ S, anh Nguyễn Sĩ N, chị Nguyễn Thị T (do bà Vũ Thị T là đại diện) trình bày: Năm 1993, hộ gia đình bà Vũ Thị T có 04 khẩu được giao đất theo nghị quyết 03 là bà Vũ Thị T, ông Nguyễn Sỹ S, chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Sĩ N. Tổng diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình nhà bà Thảo được cấp là 2016m2 gồm 06 thửa, trong đó có thửa ruộng diện tích 518m2 ở xứ đồng Bãi Đống Mắm. Năm 1999, gia đình bà Vũ Thị T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà T, ông S. Năm 2003, Ủy ban nhân dân xã N tiến hành dồn ô đổi thửa. Sau khi tiến hành dồn ô đổi thửa thì thửa ruộng trên vẫn tiếp tục được giao cho gia đình bà Thảo ông S, không có bị dồn ô hay đổi thửa. Khoảng năm 2005 - 2006, trong xóm có nhiều hộ mua bán ruộng ở khu Bãi Đống Mắm. Ông S1 và ông L đến nhà bà vận động gia đình bán thửa ruộng này, không nói rõ là các ông đó mua hộ ruộng cho ai. Do lúc đó các hộ xung quanh đều bán ruộng. Ông S1, ông L bảo gia đình bà bán thửa ruộng trong thời hạn 7 năm kể từ năm 2006, giá bán là 200.000đ/sào/năm. Hết thời hạn đó, thì người mua phải trả lại ruộng cho gia đình bà. Nếu chia lại ruộng thì người mua phải chịu trừ ruộng tiêu chuẩn ngoài đồng, còn người bán vẫn được ruộng tiêu chuẩn theo khẩu như các hộ không bán ruộng. Do vậy, gia đình bà Vũ Thị T mới đồng ý bán 518m2 đất tại Bãi Đống Mắm. Bà trực tiếp nhận tiền từ ông S1, ông L và ký vào giấy tờ bán ruộng. Ông S1, ông L là người giữ giấy tờ này. Sau này bà mới biết ông S1, ông L mua hộ ruộng cho gia đình bà Nguyễn Thị T1. Gia đình bà Nguyễn Thị T1 đã đào ao, lập vườn và gộp chung thửa ruộng của gia đình bà vào với các thửa ruộng khác. Hết thời hạn bán ruộng, nhà nước không chia lại ruộng; gia đình bà Nguyễn Thị T1 cũng không trả lại. Ủy ban nhân dân xã N đã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Nay bà Vũ Thị T giữ nguyên yêu cầu phía gia đình bà Nguyễn Thị T1 phải trả lại 518m2 ruộng tại bãi Đống Mắm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình bà, nếu không trả lại được theo nguyên trạng ban đầu thì phải trả bằng tiền, theo giá Nhà nước quy định. Đối với ông S1, ông L chỉ là người mua hộ ruộng nên bà Vũ Thị T không có yêu cầu gì.
- Bị đơn bà Nguyễn Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Hoàng Văn Đ (đại diện là bà Nguyễn Thị T1) trình bày: Khoảng năm 2000 huyện và tỉnh có chính sách chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với một số đất ruộng ở khu bãi trũng Đống Mắm do đất ngập úng, trồng lúa không phù hợp. Đến khoảng năm 2006, ở khu Bãi Đống Mắm ruộng của một số nhà bỏ không, không ai cấy vì nước trũng. Lúc đó, gia đình bà muốn làm kinh tế nông nghiệp nên có ý định mua các thửa ruộng bỏ không của các hộ ở khu Bãi Đống Mắm để đào ao, lập vườn, làm trang trại. Bà có đến nhà ông Nguyễn Xuân L là thư ký đội sản xuất nông nghiệp - là người nắm được diện tích, vị trí ruộng của ai để nhờ ông L đưa đến các hộ gia đình có ruộng để bà Thảo tự thống nhất, thỏa thuận việc mua bán với họ. Gia đình bà cũng nhờ cả ông S1 đi cùng với ông L để chứng kiến việc mua bán và tính toán tiền hộ. Việc thỏa thuận, mua bán đất ruộng giữa gia đình bà với các hộ dân không có liên quan gì đến phía ông S1, ông L. Ông S1, ông L cũng không có được hưởng lợi gì đối với việc mua bán ruộng giữa bà với các hộ. Khi thỏa thuận việc mua bán ruộng thì bà và chồng bà (ông Hoàng Văn Đ) đều thống nhất với nhau. Bà là người trực tiếp đứng ra thay mặt gia đình đến các hộ dân có đất ở Bãi Đống Mắm thỏa thuận với họ. Khi thỏa thuận việc mua bán đất thì bà đều thống nhất với các hộ dân có đất cần bán là gia đình bà mua đất với mục đích lâu dài, vĩnh viễn để đào ao, lập vườn, làm trang trại và thống nhất giá cả. Sau khi thống nhất với từng hộ xong thì phía ông L, ông S1 tính hộ số diện tích, số tiền bà phải trả. Bà đã giao tiền cho các gia đình bán ruộng. Các hộ bán ruộng sau khi nhận tiền đều ký nhận vào giấy bán ruộng và nhận tiền. Do thời gian đã lâu, bà không còn giữ được các giấy mua bán nên không nhớ được cụ thể thời gian mua, diện tích mua của từng hộ và giá cả mua bán bao nhiêu. Sau khi mua ruộng của các hộ (trong đó có hộ nhà bà Vũ Thị T) gia đình bà đã nhập các thửa ruộng này lại, đào ao, lập vườn, trồng cây,… làm thủ tục chuyển đổi và sử dụng ổn định, lâu dài từ đó đến nay. Các gia đình bán đất không có ý kiến gì. Hiện tại vị trí từng thửa ruộng gia đình bà mua, bà cũng không nhớ rõ vì đã nhập thành một thửa. Nay gia đình bà Vũ Thị T nói là gia đình bà chỉ bán diện tích đất trên cho gia đình bà đến năm 2013, quan điểm của bà là không đồng ý vì gia đình bà Vũ Thị T có bán đất vĩnh viễn thì gia đình bà mới đào ao, lập vườn. Việc mua bán này là mua đứt, bán đoạn và lâu dài. Gia đình bà không nhất trí trả lại đất cũng như trả tiền thêm. Đối với giấy bán ruộng ngày 20/4/2006 Tòa án thu thập tại UBND xã N, bà T1 xác định đó đúng là giấy bán ruộng mà bà đã ký bên người mua ruộng.
- Ông Đỗ Huy S1 trình bày: Năm 2006 ông là Bí thư chi bộ xóm 4, thôn T và là đại biểu Hội đồng nhân dân xã N. Thời điểm năm 2004 - 2005, Hội đồng nhân dân xã N đã ra nghị quyết phát động việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với đất nông nghiệp là đất bãi canh tác (đất cấy lúa bấp bênh) và giao cho các Bí thư, Trưởng thôn, Trưởng xóm về tuyên truyền cho các hộ dân có diện tích đất canh tác như trên nắm bắt được chủ trương. Lúc đó, bà Nguyễn Thị T1 biết được chủ trương nên đã đến gặp, nhờ ông và ông L đứng ra vận động các hộ dân bán đất nông nghiệp ở Bãi Đống Mắm cho gia đình bà, trong đó có đất của gia đình bà Vũ Thị T. Ông S1 có giúp bà Nguyễn Thị T1 vận động gia đình bà Vũ Thị T bán đất canh tác cho bà Nguyễn Thị T1 theo chủ trương của Hội đồng nhân dân. Sau đó, việc mua bán, thỏa thuận giá cả và giao tiền do hai bên tự thực hiện với nhau. Ông chỉ đứng ra vận động các hộ bán đất cho các hộ gia đình muốn mua theo chủ trương của xã. Ông cũng không được hưởng lợi gì từ việc mua bán. Do việc mua bán đất ruộng ở Bãi Đống Mắm giữa các gia đình diễn ra đã rất lâu rồi nên cụ thể từng việc thế nào thì ông S1 không thể nhớ được. Sau khi xem bản phô tô giấy bán ruộng ngày 20/4/2006 giữa bà Vũ Thị T và bà Nguyễn Thị T1 mà tòa án thu thập tại UBND xã N, ông S1 xác định chữ ký ở mục người mua hộ ruộng đúng là chữ ký của ông S1 và ông L. Nội dung thỏa thuận việc mua bán ruộng cụ thể giữa gia đình bà Vũ Thị T và bà Nguyễn Thị T1 như thế nào thì đã thể hiện trong giấy bán ruộng. Quan điểm của ông S1 là việc mua bán đất giữa gia đình bà Nguyễn Thị T1 với gia đình bà Vũ Thị T là việc giữa hai gia đình họ với nhau, ông không liên quan. Ông cũng đề nghị Tòa án không triệu tập ông và cho phép ông được vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp, hòa giải cũng như các phiên xét xử.
- Ông Nguyễn Xuân L trình bày: Ông nguyên là đại biểu Hội đồng nhân dân xã N và Thư ký đội sản xuất nông nghiệp xóm 3, thôn T. Ông được tham gia vào ban chia ruộng năm 1993 và giai đoạn dồn ô đổi thửa năm 2003 đối với đất nông nghiệp. Do đó, ông nắm được số liệu về diện tích, vị trí đất nông nghiệp của các hộ dân tại xóm 3, thôn T, xã N. Thời điểm năm 2004 - 2005, trong cuộc họp Hội đồng nhân dân, Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã N có phổ biến chủ trương về việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với đất nông nghiệp là đất bãi canh tác (đất trồng lúa bấp bênh) và giao cho các bí thư, trưởng thôn, trưởng xóm về tuyên truyền cho các hộ dân nắm được. Sau thời điểm đó, một số hộ dân trong thôn đã giao dịch mua bán đất nông nghiệp để thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong đó, có hộ nhà bà Nguyễn Thị T1. Khoảng năm 2006, bà T1 có đến gặp ông để hỏi về diện tích, số thửa đất nông nghiệp ở bãi Đống Mắm của một số hộ dân để bà T1 giao dịch, mua bán. Ông đã cung cấp các số liệu cho bà T1. Do thời gian lâu nên ông không nhớ rõ được cụ thể ông đã cung cấp số liệu của những hộ nào. Việc thỏa thuận mua bán đất, trả tiền, viết giấy mua bán giữa bà Nguyễn Thị T1 với các hộ dân như thế nào ông cũng không nhớ. Ông L xác định chữ ký ở mục người mua hộ ruộng trong bản phô tô giấy bán ruộng ngày 20/4/2006 tòa án thu thập tại UBND xã N đúng là chữ ký của ông và ông S1. Nội dung thỏa thuận việc mua bán ruộng cụ thể giữa hộ nhà bà Vũ Thị T và bà Nguyễn Thị T1 như thế nào thì đã thể hiện trong giấy bán ruộng. Quan điểm của ông L là việc mua bán ruộng giữa gia đình bà Nguyễn Thị T1 với gia đình bà Vũ Thị T là việc giữa gia đình họ với nhau. Ông và ông S1 chỉ đứng ra vận động các hộ mua bán ruộng với nhau theo chủ trương của xã và không được hưởng lợi và không liên quan gì trong các giao dịch đó. Ông đề nghị Tòa án không triệu tập ông và cho phép ông được vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp, hòa giải cũng như các phiên xét xử.
- Ông Nguyễn Huy Sơn trình bày: Ông giữ chức vụ Bí thư chi bộ xóm 3, thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương từ năm 2005 đến năm 2012. Khoảng tháng 4/2006 ông Đỗ Huy S1 có đến hỏi mua ruộng nhà ông và nói với ông là tất cả những hộ gia đình có ruộng ở Bãi Đống Mắm đều đã đồng ý bán. Ông S1 thỏa thuận với ông giá mua bán là 200.000đ/sào/năm, thời hạn bán từ tháng 6/2006 đến ngày 15/10/2013 (theo nghị quyết 03), hết thời hạn thì người bán được trả lại ruộng tiêu chuẩn của gia đình mình, mục đích mua để đào ao, nuôi vịt. Khi ông S1 trả tiền cho ông và ông ký vào danh sách nhận tiền, ông thấy trong danh sách đã có rất nhiều hộ gia đình trong xóm 3 cũng đã ký nhận tiền. Thời kỳ đó tại xóm 3 thôn T, N có 63 hộ gia đình đều bán ruộng tại Bãi Đống Mắm cho ông S1 giống như gia đình ông, trong đó có hộ gia đình bà Vũ Thị T.
- Tại biên bản xác minh với Ủy ban nhân dân xã N, UBND xã N xác định:
Năm 1993, gia đình bà Vũ Thị T có 04 khẩu được cấp đất theo nghị quyết 03 gồm: bà Vũ Thị T, chồng là ông Nguyễn Sỹ S và các con là Nguyễn Thị T và Nguyễn Sĩ N. Tổng diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình bà Vũ Thị T được cấp là 2016m2 gồm 06 thửa, trong đó có thửa số 291/6 diện tích 518m2 ở xứ đồng Bãi Đống Mắm, thuộc tờ bản đồ số 1 (bản đồ địa chính năm 1993). Thời hạn giao đất là 20 năm từ ngày 15/10/1993 đến ngày 15/10/2013. Năm 1999, gia đình bà Vũ Thị T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đứng tên hộ gia đình ông Nguyễn Sỹ S và bà Nguyễn Thị T1. Số vào sổ cấp GCNQSDĐ: 562 QSDĐ/297 năm 1999. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên hộ ông Nguyễn Sỹ S và bà Nguyễn Thị T1 là do ghi nhầm họ của bà T. Tên đúng phải là Vũ Thị T vì trong hộ gia đình ông S chỉ có bà Vũ Thị T, ngoài ra không có ai là Nguyễn Thị T1. Năm 2003, thực hiện việc dồn ô đổi thửa nên UBND xã N đã tiến hành chia lại ruộng và thực hiện việc đo đạc lập tờ bản đồ canh tác mới. Sau khi tiến hành dồn ô đổi thửa thì các hộ dân không được cấp lại GCNQSDĐ mà vẫn sử dụng GCNQSDĐ đã cấp năm 1999 theo diện tích đất đã được giao từ năm 1993. Diện tích đất đang tranh chấp giữa gia đình bà Vũ Thị T với gia đình bà Nguyễn Thị T1 hiện nay là thửa số 291/6 tờ bản đồ số 01 có diện tích 518m2 ở xứ đồng Bãi Đống Mắm, thuộc thôn T, xã N, huyện N, Hải Dương (bản đồ năm 1993). Sau khi tiến hành dồn ô đổi thửa năm 2003 thì thửa ruộng trên vẫn tiếp tục được giao cho hộ gia đình ông S và bà Vũ Thị T. Theo tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2006) thì thửa đất trên chính là thửa 93 diện tích 518m2.
Năm 2005, UBND huyện Nam Sách có chủ trương chuyển đổi đất canh tác thành vùng vườn, làm trang trại, đào ao, thả cá. Theo Quyết định số 3498/QĐ- UBND ngày 29/12/2005 của UBND huyện Nam Sách thì UBND xã N được chuyển đổi 174.110m2 đất trồng lúa bấp bênh, đất ao mương để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đào ao, nuôi trồng thủy sản và lập vườn trồng cây, vị trí khu đất tại bản đồ canh tác số 01, 02, 05, 06, 08, 10. Sau khi có chủ trương UBND xã N có tuyên truyền đến các hộ dân. Các hộ dân có nhu cầu làm trang trại nhờ ông Đỗ Huy S1, ông Nguyễn Xuân L vận động các hộ dân để bán đất. Việc giao dịch mua bán giữa các hộ dân như thế nào thì UBND xã không lắm được vì khi mua bán các hộ dân không đến UBND xã để chứng thực văn bản mua bán.
Đến năm 2006 bà Nguyễn Thị T1 và những hộ sử dụng đất giống bà Thảo, đã tiến hành đào ao, UBND xã thấy vậy đã xuống ngăn chặn và yêu cầu các hộ làm thủ tục chuyển đổi. Các hộ dân chỉ làm văn bản xác nhận có chữ ký của trưởng thôn, xóm, xác nhận nội dung: Đó là đất bãi và các hộ dân đã mua bán với nhau xong. Sau đó UBND xã hướng dẫn bà T1 làm hồ sơ chuyển đổi. Hiện nay UBND xã không còn lưu giữ được hồ sơ chuyển đổi của hộ bà T1 mà chỉ còn lưu giữ được giấy mua bán ruộng ghi ngày 20/4/2006 giữa bà Vũ Thị T, bà Nguyễn Thị T1, có chữ ký người mua hộ ruộng là ông S1, ông L.
Theo hiện trạng hiện nay thì khu trang trại của gia đình bà Nguyễn Thị T1 đang sử dụng bao gồm các thửa đất như sau: 109, 108, 107, 106, 105, 104, 103, 102, 101, 100, 99, 98, 97, 96, 95, 94, 93, 92, 112, 111, 110, 87, 88, 84 đều thuộc tờ bản đồ số 11 bản đồ địa chính năm 2006. Ngoài việc sử dụng đất của các hộ dân ở xóm 3, hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 còn sử dụng cả đất công điền do UBND xã quản lý. Hiện nay bà Nguyễn Thị T1 đã đào ao, xây dựng trang trại trên các thửa đất đó, hiện trạng đất đã thay đổi nên không thể xác định được vị trí của các thửa đất, không thể xác định được thửa đất số 291/6 diện tích 518m2 thuộc tờ bản đồ 01 bản đồ năm 1993 (hiện tại là thửa 93, diện tích 518m2, tờ bản đồ số 11 - bản đồ địa chính năm 2006) của hộ gia đình bà Vũ Thị T, ông Nguyễn Sỹ S mà chỉ xác định được thửa đất đó nằm trong khu trang trại của gia đình bà Nguyễn Thị T1 bao gồm các thửa đất đã nêu trên.
- Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nam Sách cung cấp: Năm 2010, phòng Nông nghiệp được Ủy ban nhân dân huyện N giao làm cơ quan chủ trì xem xét hồ sơ chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang đầu tư dự án trang trại kinh tế nông nghiệp của một số hộ dân ở huyện N, trong đó có hộ bà Nguyễn Thị T1. Hồ sơ chuyển đổi do Ủy ban nhân dân xã N hướng dẫn các hộ dân thực hiện và chuyển đến phòng Nông nghiệp xem xét. Sau khi xem xét hồ sơ đầy đủ thủ tục theo quy định, phòng Nông nghiệp phối hợp cùng các cơ quan chức năng thống nhất trình UBND huyện N ra quyết định. Hiện tại Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nam Sách không còn lưu giữ được hồ sơ và quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang đầu tư dự án trang trại kinh tế nông nghiệp của hộ bà Nguyễn Thị T1. Theo danh sách trang trại nông nghiệp huyện N tính đến thời điểm tháng 3/2012, lập ngày 26/4/2012, tại số thứ tự 33 hộ bà Nguyễn Thị T1, địa chỉ T, N, Nam Sách; loại hình trang trại chăn nuôi; diện tích 8.376m2.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đầu tư kinh tế trang trại của hộ bà Nguyễn Thị T1 tại thôn T là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và chủ trương của huyện N. Còn việc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị T1 với các hộ dân như thế nào phòng Nông nghiệp không nắm được.
Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/4/2019: Các đương sự không xác định được vị trí, kích thước thửa đất tranh chấp vì hiện tại gia đình bà Nguyễn Thị T1 đã nhập vào chung với các thửa đất khác và đào ao, lập vườn.
Tại biên bản định giá tài sản ngày 24/4/2019: Hội đồng định giá xác định giá đất nông nghiệp tại khu đất tranh chấp có giá trị là 70.000đ/m2. Các công trình, cây cối trên đất các đương sự không yêu cầu định giá.
Tại phiên toà:
Nguyên đơn bà Vũ Thị T vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu phía gia đình bà Nguyễn Thị T1 phải trả lại 518m2 ruộng tại bãi Đống Mắm như trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho gia đình bà. Nếu không trả lại được thì phải trả lại bằng tiền, theo quy định của Nhà nước. Bà Vũ Thị T cũng không yêu cầu Tòa án xác định rõ phần được hưởng của từng thành viên trong hộ gia đình mà việc đó để tự gia đình bà giải quyết với nhau.
Bị đơn bà Nguyễn Thị T1 giữ nguyên quan điểm xác định việc mua bán giữa bà và gia đình bà Vũ Thị T là mua đứt, bán đoạn và lâu dài. Gia đình bà không nhất trí trả lại đất cũng như trả tiền thêm.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký kể từ thời điểm thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng các quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng. Việc đưa vụ án ra xét xử của Tòa án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết: Áp dụng: Điều 166, Điều 170, điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 179, khoản 3 Điều 210, khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai; Điều 164, 166, khoản 1 Điều 275, Điều 357, điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 303, 600 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 228, Điều 229, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T.
Buộc bà Nguyễn Thị T1 và ông Hoàng Văn Đ phải liên đới trả cho bà Vũ Thị T, ông Nguyễn Sỹ S, anh Nguyễn Sĩ N, chị Nguyễn Thị T (do bà Vũ Thị T là đại diện) giá trị 518m2 đất nông nghiệp là 36.260.000đ (Ba mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn).
Giao cho bà Nguyễn Thị T1, ông Hoàng Văn Đ sử dụng 518m2 đất nông nghiệp tại thửa số 291/6 diện tích 518m2 thuộc tờ bản đồ 01 bản đồ canh tác năm 1993 (hoặc thửa 93, diện tích 518m2, tờ bản đồ số 11 - bản đồ canh tác năm 2006 xã N) mang tên hộ ông Nguyễn Sỹ S và bà Vũ Thị T (hiện đang nằm trong khu trang trại nông nghiệp mà hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 đang sử dụng).
Hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Về án phí; chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; chi phí định giá tài sản: Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến của đương sự và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án – ông Nguyễn Sỹ S, anh Nguyễn Sĩ N, chị Nguyễn Thị T vắng mặt đã ủy quyền cho bà Vũ Thị T là đại diện; Ông Đỗ Huy S1, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Duy S đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228; Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng.
[2] Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của ông Đỗ Huy S1, ông Nguyễn Xuân L trong vụ án: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, bị đơn, lời khai của ông S1, ông L, giấy bán ruộng - mua ruộng ngày 20/4/2006, có cơ sở xác định: Ông Nguyễn Xuân L và ông Đỗ Huy S1 có tham gia vào việc thỏa thuận, vận động gia đình bà Vũ Thị T bán ruộng cho bà Nguyễn Thị T1, đứng ra mua đất hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1. Sau đó, bàn giao toàn bộ diện tích đất đó cho gia đình bà Nguyễn Thị T1 trực tiếp khai thác, sử dụng. Do các đương sự không tranh chấp về giao dịch mua bán và bà Vũ Thị T chỉ khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị T1 trả lại đất vì hết thời hạn mua bán. Do vậy, ông Đỗ Huy S1, ông Nguyễn Xuân L không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T yêu cầu gia đình bà Nguyễn Thị T1 phải trả 518m2 đất nông nghiệp trồng cây hàng năm tại bãi Đống Mắm của gia đình bà, HĐXX thấy: Về nguồn gốc và hiện trạng sử dụng: 518m2 đất nông nghiệp tại thửa số 291/6 thuộc tờ bản đồ 01 bản đồ năm 1993 (hiện tại là thửa 93, diện tích 518m2, tờ bản đồ số 11 - bản đồ địa chính năm 2006 xã N) đã được Nhà nước giao đất theo Nghị quyết 03 từ năm 1993 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông Nguyễn Sỹ S và bà Vũ Thị T năm 1999. Tại Bảng thống kê diện tích, loại đất chủ sử dụng theo hiện trạng xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương, sổ mục kê đất (kèm theo bản đồ địa chính năm 2006) vẫn thể hiện: tờ bản đồ số 11; thửa số 93; diện tích 518m2; loại đất LUC; họ tên chủ sử dụng đất Nguyễn Sỹ S; xứ đồng Đống Mắm; địa chỉ: Đội 3. Do đó, thửa đất này có nguồn gốc là của hộ gia đình bà Vũ Thị T (ông S).
[4] Về giao dịch mua bán đất: Năm 2006, thông qua ông S1, ông L gia đình bà Vũ Thị T đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T1 diện tích 518m2 đất nêu trên bằng giấy viết tay, không làm thủ tục hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các bên đã thực hiện việc giao đất, nhận tiền. Hiện tại gia đình bà Nguyễn Thị T1, ông Hoàng Văn Đ vẫn đang quản lý, sử dụng. Cả bà Nguyễn Thị T1 và bà Vũ Thị T đều xác định có ký vào giấy bán ruộng ngày 20/4/2006 mà tòa án thu thập tại Ủy ban nhân dân xã N. Tại giấy bán ruộng thể hiện “Mục đích chuyển đổi cây trồng đào ao thả cá. Thời gian mua bán hết nghị quyết 03. Bắt đầu từ chiêm năm 2006 đến hết năm 2012. Khi chia lại ruộng thì người mua phải chịu trừ ruộng tiêu chuẩn ngoài đồng. Người bán vẫn được ruộng tiêu chuẩn theo khẩu như các hộ không bán ruộng....diện tích 528m2 Số tiền 1.760.000đ”. Như vậy, có cơ sở xác định việc mua bán đất ruộng giữa hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 và bà Vũ Thị T chỉ trong thời hạn nhất định, cụ thể từ năm 2006 đến hết năm 2012, chứ không phải gia đình bà Vũ Thị T đã bán ruộng vĩnh viễn cho bà Nguyễn Thị T1. Thực tế, đến nay bà Nguyễn Thị T1 vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà hộ gia đình bà Vũ Thị T (ông S) vẫn là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích chuyển nhượng.
[5] Bà Nguyễn Thị T1 xác định sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình bà đã làm đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng và được Ủy ban nhân dân huyện Nam Sách chấp thuận dự án. Xét thấy việc mua bán quyền sử dụng đất là có thật, nhưng việc mua bán có thời hạn. Hơn nữa, việc Ủy ban nhân dân huyện Nam Sách đồng ý cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng không phải là căn cứ pháp lý xác định quyền sử dụng đất của gia đình bà Nguyễn Thị T1.
[6] Theo quy định tại khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 thì “Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về luật đất đai …” và Nghị quyết 49/2013/QH13 ngày 21/6/2013 đã quy định “… Nhà nước không điều chỉnh lại đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối đã giao cho hộ gia đình theo Luật Đất đai số 13/2003/QH11; hộ gia đình cá nhân tiếp tục được sử dụng cho đến khi Luật đất đai (sửa đổi) được ban hành và có hiệu lực thi hành, khi đó thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân áp dụng theo Luật Đất đai (sửa đổi). Theo quy định tại khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai năm 2013 thì “ Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp đã được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất… trước ngày 01/7/2014, khi hết thời hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu thì tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 126, thời hạn sử dụng đất được tính từ ngày 15/10/2013 đối với trường hợp hết hạn vào ngày 15/10/2013….” Theo khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai thì “ Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp… là 50 năm…”. Diện tích đất tranh chấp là đất nông nhiệp, Nhà nước giao cho hộ gia đình bà Vũ Thị T, ngày 15/10/2013 cũng là ngày hết thời hạn sử dụng đất theo Nghị quyết 03 và cũng là ngày hết thời hạn chuyển nhượng đất giữa hai bên theo thỏa thuận. Nay gia đình bà Vũ Thị T vẫn có nhu cầu sử dụng và đòi lại ruộng, nên gia đình bà Nguyễn Thị T1 phải trả lại gia đình bà Vũ Thị T 518m2 đất nông nghiệp tại bãi Đống Mắm, thôn T, xã N là có cơ sở phù hợp với quy định tại Điều 105, Điều 106, khoản 1 Điều 67 Luật đất đai năm 2003; khoản 3 Điều 210, khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai năm 2013; Điều 164, 166 Bộ luật dân sự năm 2015.
[7] Xét thấy, bà Nguyễn Thị T1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình bà Vũ Thị T và nhiều hộ gia đình khác, sau đó gia đình bà Nguyễn Thị T1 đã chuyển đổi mục đích sử dụng đất đào ao, trồng cây, xây dựng chuồng, trại nên thửa đất của gia đình bà Vũ Thị T không còn nguyên hiện trạng như ban đầu, không xác định được vị trí, hình thể của thửa đất. Do vậy, để bảo đảm giá trị công trình, tài sản và ổn định cho người sử dụng đất hiện tại cần buộc bà Nguyễn Thị T1, ông Hoàng Văn Đ phải thanh toán trị giá diện tích 518m2 đất nông nghiệp cho hộ gia đình bà Vũ Thị T là phù hợp. Vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị T buộc bà Nguyễn Thị T1 và ông Hoàng Văn Đ phải trả cho hộ gia đình bà Vũ Thị T giá trị 518m2 đất bằng 36.260.000đ; giao cho bà Nguyễn Thị T1 và ông Hoàng Văn Đ được sử dụng 518m2 đất của hộ gia đình bà Vũ Thị T tại thửa số 291/6 diện tích 518m2 thuộc tờ bản đồ 01 bản đồ canh tác năm 1993 (hiện tại là thửa 93, diện tích 518m2, tờ bản đồ số 11 - bản đồ canh tác năm 2006 xã N); gia đình bà Nguyễn Thị T1 tiếp tục sở hữu, sử dụng các tài sản trên đất.
[8] Phía bà Vũ Thị T không yêu cầu xác định phần giá trị đất cụ thể của mỗi thành viên hộ gia đình được hưởng nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[9] Theo giấy bán ruộng thể hiện diện tích bán là 528m2, bà Vũ Thị T xác định thực tế gia đình bà chỉ có 518m2, việc ghi 528m2 là do ghi nhầm. Bà cũng chỉ đòi 518m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện. Do vậy, không đặt ra xem xét giải quyết đối với diện tích 10m2 vượt quá này.
[10] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị T được chấp nhận nên bà Vũ Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả tạm ứng án phí mà bà Vũ Thị T đã nộp. Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm khoản 2 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[11] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản: Yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị T được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị T1 phải chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản là 640.000đ (Sáu trăm bốn mươi nghìn đồng). Trong đó: Chi xem xét, thẩm định tại chỗ là 445.000đ, chi phí định giá tài sản là 195.000đ. Do bà Vũ Thị T đã nộp toàn bộ tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và tạm ứng chi phí định giá tài sản nên bà Nguyễn Thị T1 phải hoàn trả số tiền này cho bà Vũ Thị T theo quy định tại Điều 157, Điều 158, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 166, Điều 170, điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 179, khoản 3 Điều 210, khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai; Điều 164, 166, khoản 1 Điều 275, Điều 357, điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 303, 600 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 228, Điều 229, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T.
Buộc bà Nguyễn Thị T1 và ông Hoàng Văn Đ phải liên đới trả cho bà Vũ Thị T, ông Nguyễn Sỹ S, anh Nguyễn Sĩ N, chị Nguyễn Thị T (do bà Vũ Thị T là đại diện) giá trị 518m2 đất nông nghiệp là 36.260.000đ (Ba mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn).
Giao cho bà Nguyễn Thị T1, ông Hoàng Văn Đ sử dụng 518m2 đất nông nghiệp tại thửa số 291/6 diện tích 518m2 thuộc tờ bản đồ 01 bản đồ địa chính năm 1993 (hiện tại là thửa 93, diện tích 518m2, tờ bản đồ số 11 - bản đồ địa chính năm 2006 xã N) mang tên hộ ông Nguyễn Sỹ S và bà Vũ Thị T (hiện đang nằm trong khu trang trại nông nghiệp mà hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 đang sử dụng).
Hộ gia đình bà Nguyễn Thị T1 liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; chi phí định giá tài sản:
Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 445.000đ, chi phí định giá tài sản là 195.000đ. Tổng cộng 640.000đ (Sáu trăm bốn mươi nghìn đồng). Bà Vũ Thị T đã nộp 445.000đ tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và 195.000đ tạm ứng chi phí định giá tài sản. Do vậy, bà Nguyễn Thị T1 phải có trách nhiệm thanh toán trả cho bà Vũ Thị T tổng số tiền 640.000đ (Sáu trăm bốn mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Án phí:
Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả bà Vũ Thị T 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2017/0004421, ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Về quyền kháng cáo: Bà Vũ Thị T, ông Nguyễn Sỹ S, anh Nguyễn Sĩ N, chị Nguyễn Thị T (do bà Vũ Thị T là đại diện); Bà Nguyễn Thị T1, ông Hoàng Văn Đ (do bà Nguyễn Thị T1 là đại diện) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 03/2019/DS-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp kiện đòi quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 03/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về