TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 03/2019/DSST NGÀY 16/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong các ngày 27/9 và 16/10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2019/TLST-KDTM ngày 16 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương mại mua bán hàng hóa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2019/QĐXXST-KDTM ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty cổ phần xây lắp và vật liệu xây dựng DT
Địa chỉ: Số 03, đường T, phường 1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu P, chức vụ: Tổng giám đốc công ty. Số điện thoại: 02773.872.717.
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Hữu P: Chị Trương Mộng T, sinh năm 1995;
Địa chỉ: Tổ 2, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Số điện thoại: 0355.243.820. Là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 08/4/2019) (có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D
Địa chỉ trụ sở chính: Số 5-7, đường H, phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Bá Đ, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Số 259/1D, đường C, phường 7, quận T, thành phố Hồ Chí Minh. Chức danh: Giám đốc (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Công ty TNHH Xây lắp và Vật liệu xây dựng DT có Trương Mộng T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Công ty TNHH MTV Xây lắp và Vật liệu xây dựng DT nay là Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu xây dựng DT (sau đây gọi tắt là Công ty Xây lắp và VLXD DT) ký Hợp đồng số 02/HĐ-NTT.16 ngày 12/4/2016 với Công ty TNHH xây dựng và thương mại D (sau đây gọi tắt là Công ty D) về việc hai bên thống nhất thực hiện mua bán sản phẩm bê tông nhựa nóng hạt trung C12.5, khối lượng 130 tấn, giá 1.330.000 đồng/tấn, thành tiền 172.900.000 đồng để phục vụ cho công trình hệ thống thoát nước nội ô thành phố Cao Lãnh do bên Công ty D tổ chức thi công, do Công ty cổ phần cấp nước và môi trường đô thị T làm chủ đầu tư.
Sau khi ký hợp đồng, ngày 15/4/2016 Công ty D chuyển khoản tạm ứng thanh toán cho bên Công ty Xây lắp và VLXD DT số tiền: 100.000.000 đồng. Ngày 26/4/2016 Công ty Xây lắp và VLXD DT đã giao bê tông khối lượng 83,89 tấn, giá 1.330.000 đồng/tấn, thành tiền 111.573.700 đồng và lập Biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành. Ngoài ra, Công ty Xây lắp và VLXD DT còn cung cấp bê tông nhựa nóng hạt trung C12.5 vào ngày 26 và 27/01/2016, số tiền 35.931.000 đồng và đã thanh toán số tiền 36.250.000 đồng nên Công ty D thanh toán thừa số tiền: 319.000 đồng. Sau khi cấn trừ, Công ty D còn nợ lại số tiền 11.254.700 đồng. Do số tiền nợ còn ít và theo yêu cầu của Công ty D thực hiện thanh quyết toán nên Công ty Xây lắp và VLXD DT tiến hành xuất hóa đơn giá trị gia tăng số 0006845 ngày 31/5/2016 số tiền: 111.573.700 đồng cho Công ty D.
Công ty Xây lắp và VLXD DT đã nhiều lần yêu cầu Công ty D thanh toán số tiền nợ, nhưng Công ty D không thực hiện. Công ty Xây lắp và VLXD DT yêu cầu Công ty D thanh toán số tiền nợ là 11.254.700 đồng và số tiền lãi là 3.176.076 đồng, với mức lãi suất là 0,83%/tháng tính từ ngày 06/5/2016 đến ngày 06/3/2019 (34 tháng). Tổng số tiền nợ gốc và tiền lãi là 14.430.776 đồng.
Đơn yêu cầu ngày 20/9/2019 và tại phiên tòa Công ty Xây lắp và VLXD DT yêu cầu Công ty D trả số tiền 11.254.700 đồng, không yêu cầu tính lãi. Đồng thời, không yêu cầu đưa Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường Đô thị T tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Công ty Xây lắp và VLXD DT không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ và không yêu cầu thu thập thêm tài liệu chứng cứ khác.
Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D không có văn bản ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Công ty cổ phần cấp nước và môi trường đô thị T trình bày: Gói thầu xây lắp – thiết bị của dự án hệ thống thoát nước thành phố Cao Lãnh đã thi công hoàn thành. Gói thầu này, Công ty ký hợp đồng với nhà thầu là nhà thầu Liên danh GQCPL-SFC Việt Nam.
Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường đô thị T không ký hợp đồng với Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D. Công ty D là đội thi công của nhà thầu Liên danh GQCPL-SFC VN, các đội này có thực hiện công tác thảm nhựa cho dự án, tuy nhiên DOWASEN không xác định được khối lượng nhựa thảm, cũng như không xác định được giá trị nhựa tại dự án. Do đó, Công ty D ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm bê tông nhựa để thi công dự án thoát nước không thuộc vào các điều khoản hợp đồng mà Công ty cấp nước ký kết với Nhà thầu Liên doanh GQCPL-SFC VN nên Công ty không có quyền hạn can thiệp vào sự việc này.
Ngày 30/8/2019 Công ty Cổ phần Cấp nước và Môi trường đô thị T có ông Nguyễn Văn H là người đại diện theo ủy quyền có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Xây lắp và VLXD DT. Buộc Công ty D trả cho Công ty Xây lắp và VLXD DT số tiền 11.254.700 đồng. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty Xây lắp và VLXD DT tiền lãi số tiền 3.176.076 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, Hợp đồng số 02/HĐ-NTT.16 ngày 12/4/2016 nguyên đơn, bị đơn thỏa thuận Tòa án giải quyết vụ án là Tòa án nơi có trụ sở của nguyên đơn, nguyên đơn có địa chỉ tại phường 1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Nguyên đơn, bị đơn có đăng ký kinh doanh và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa vì mục đích lợi nhuận. Do đó, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương mại mua bán hàng hóa theo quy định tại Điều 24 Luật Thương mại, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Thời hiệu khởi kiện: Căn cứ Điều 319 Luật Thương mại thời hiệu khởi kiện 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Theo Hợp đồng số 02/HĐ-NTT.16 ngày 12/4/2016 khoản 4.2 Điều 4 quy định kể từ ngày có biên bản nghiệm thu thì trong thời hạn 10 ngày phải thanh toán, nếu chưa thanh toán thì phải chịu lãi suất tiền vay ngắn hạn của Vietcombank, thời hạn chậm thanh toán không được vượt quá 30 ngày. Biên bản nghiệm thu ký ngày 26/4/2016, thời hạn thanh toán không vượt quá 40 ngày nên thời hạn tính thời hiệu kể từ ngày 07/6/2016 đến ngày 07/6/2018 là hết thời hiệu khởi kiện vụ án. Tuy nhiên, ngày 15/7/2019 Tòa án ban hành Thông báo về yêu cầu đương sự Công ty D có ý kiến về áp dụng thời hiệu khởi kiện nhưng Công ty D không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định chung.
[3] Tư cách đương sự: Công ty Xây lắp và VLXD DT khởi kiện không yêu cầu Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường đô thị T có nghĩa vụ liên đới trách nhiệm cùng Công ty D thanh toán số tiền còn nợ 11.254.700 đồng và xét thấy Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường đô thị T không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vì vậy, theo đơn yêu cầu ngày 20/9/2019 và tại phiên tòa Công ty Xây lắp và VLXD DT đề nghị không đưa Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường đô thị T tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp nên Công ty cổ phần cấp nước và môi trường đô thị T không còn tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[4] Căn cứ Công văn số 6682/ĐKKD-THKT ngày 08/10/2019 của Phòng Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cung cấp: Công ty D.A.T TNHH Xây dựng và Thương mại D, đăng ký kinh doanh tại địa chỉ số 5-7, đường H, phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh, chưa đăng ký giải thể. Công ty D không có văn bản ghi ý kiến, không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh và đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Công ty D.
[5] Công ty cổ phần Cấp nước và Môi trường Đô thị T có ông Nguyễn Văn H là người đại diện theo ủy quyền có đơn xin xét xử vắng mặt là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên chấp nhận.
[6] Công ty Xây lắp và VLXD DT cung cấp cho Công ty D bê tông nhựa nóng hai lần vào ngày 26/01/2016 và ngày 27/01/2016 với số tiền 35.931.000 đồng (đã bao gồm VAT), đã thanh toán số tiền 36.250.000 đồng. Đồng thời, hai bên tiếp tục ký Hợp đồng số 02/HĐ-NTT.16 ngày 12/4/2016 cung cấp bê tông nhựa nóng hạt trung C12.5. Đến ngày 15/4/2016 Công ty D tạm ứng cho Công ty Xây lắp và VLXD DT số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 26/4/2016 Công ty Xây lắp và VLXD DT cung cấp cho Công ty D hàng hóa bê tông nhựa nóng hạt trung C12.5 khối lượng 83,89 tấn, giá 1.330.000 đồng/tấn, thành tiền 111.573.700 đồng, có lập biên bản nghiệm thu phù hợp tại mục 5.1 Điều 5 của Hợp đồng. Ngày 31/5/2016 Công ty Xây lắp và VLXD DT xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Sau khi cấn trừ số tiền đã thanh toán 100.319.000 đồng, Công ty D còn nợ lại số tiền 11.254.700 đồng. Lời trình bày của Công ty Xây lắp và VLXD DT là có căn cứ, phù hợp với Lệnh thanh toán ngày 15/4/2016 của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đồng Tháp (BL 38a) thể hiện Công ty D trả tiền vật tư cho Công ty Xây lắp và VLXD DT và Sổ tổng hợp phải thu của khách hàng từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2016 trích lập ngày 07/8/2019 của Công ty Xây lắp và Vật liệu xây dựng DT. Căn cứ mục 5 khoản 4.2 Điều 4 hợp đồng thể hiện: Sau khi Bên A đã thanh toán dứt điểm 100% giá trị khối lượng bê tông nhựa nóng đã nghiệm thu trong từng đợt, Bên B sẽ tiến hành xuất hóa đơn GTGT tương ứng giá trị khối lượng đã được nghiệm thu cho Bên A. Tuy nhiên Công ty Xây lắp và VLXD DT đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng vào ngày 31/5/2016 nhưng vẫn xác định Công ty D còn nợ số tiền 11.254.700 đồng chưa thanh toán. Vì vậy, ngày 16/7/2019 Tòa án ban hành Thông báo số 353/TB-TA đề nghị Công ty D cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh không còn nợ Công ty Xây lắp và VLXD DT số tiền 11.254.700 đồng nhưng Công ty D không cung cấp chứng cứ chứng minh theo yêu cầu của Tòa án. Do đó, có đủ căn cứ xác định Công ty D chưa thanh toán số tiền hàng còn nợ 11.254.700 đồng. Vì vậy, căn cứ Điều 50 Luật Thương mại, chấp nhận yêu cầu của Công ty Xây lắp và VLXD DT, buộc Công ty D có trách nhiệm trả cho Công ty Xây lắp và VLXD DT số tiền 11.254.700 đồng.
[7] Đối với tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ Công ty Xây lắp và VLXD DT yêu cầu Công ty D trả với mức lãi suất là 0,83%/tháng tính từ ngày 06/5/2016 đến ngày 06/3/2019 (34 tháng) x 11.254.700 đồng, thành tiền số tiền 3.176.076 đồng. Xét thấy, ngày 20/9/2019 Công ty Xây lắp và VLXD DT có đơn yêu cầu xin rút yêu cầu khởi kiện về tiền lãi là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự nên chấp nhận. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của Công ty Xây lắp và VLXD DT về tiền lãi số tiền 3.176.076 đồng.
[8] Xét đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh phù hợp với nhận định nêu trên nên chấp nhận.
[9] Về án phí: Do Công ty Xây lắp và VLXD DT được chấp nhận yêu cầu nên Công ty D phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 24, Điều 50 Luật Thương mại;
Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
[1] Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu xây dựng DT về tiền lãi số tiền 3.176.076 đồng.
[2] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu Xây dựng DT.
[3] Buộc Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu Xây dựng DT số tiền 11.254.700 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành, theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
[4] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D phải chịu số tiền 3.000.000 đồng.
Hoàn trả cho Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu Xây dựng DT số tiền nộp tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.000.000 đồng theo Biên lai thu số BH/2017/0008801 ngày 13/5/2019 nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
[5] Về quyền kháng cáo: Công ty Cổ phần Xây lắp và Vật liệu Xây dựng DT được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc niêm yết) bản án.
[6] Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 03/2019/DSST ngày 16/10/2019 về tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 03/2019/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về