TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 03/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI DƯỠNG CON CHUNG
Ngày 05 tháng 02 năm 2018. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 244/2017/TLST - HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Trung H.
Địa chỉ: Số nhà 127, đường H, Tổ 7 phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai
- Có mặt tại phiên toà.
2- Bị đơn: Chị Cấn Phương N.
ĐKHKTT: Thôn T, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nơi ở: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai – Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2017 và các bản tự khai của anh Nguyễn Trung H, lời khai của chị Cấn Phương N cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào ngày 10/01/2014. Vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, nuôi dậy con cái, dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi chửi nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc, không quan tâm gì đến nhau. Ngoài những mâu thuẫn trên thì đến tháng 3/2017 chị Cấn Phương N có hành vi vi phạm pháp luật và đã bị cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lào Cai khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với chị Cấn Phương N về hành vi "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hiện cơ quan điều tra đang điều tra làm rõ hành vi phạm pháp luật của chị Cấn Phương N. Cũng từ tháng 3/2017 vợ chồng đã tự sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian này không ai quan tâm thăm hỏi gì đến nhau nữa. Đến nay anh Nguyễn Trung H có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với chị Cấn Phương N. Chị Cấn Phương N không nhất trí ly hôn với Nguyễn Trung H với lý do chị xin được đoàn tụ để vợ chồng nuôi dậy con chung.
Về con chung: Anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều xác nhận vợ chồng chung sống với nhau đến nay đã có 01 con chung. Cháu Nguyễn Phương N; Sinh ngày 23/10/2014. Hiện cháu khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng với anh Nguyễn Trung H tại tổ 7 phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phương N cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung: Anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị chưa tạo dựng được tài sản gì chung. Nên anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ chung: Trong thời gian chung sống anh chị không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì, nên anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; trình bày những quan điểm về thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã thực hiện đầy đủ các bước thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Xử cho anh Nguyễn Trung H ly hôn với chị Cấn Phương N.
Xử giao cháu Nguyễn Phương N; Sinh ngày 23/10/2014 cho anh Nguyễn Trung H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Phương N trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Cấn Phương N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào ngày 10/01/2014. Đây là một hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau ngày kết hôn vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đã có 01 con chung, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc anh Nguyễn Trung H làm đơn xin ly hôn chị Cấn Phương N là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, nuôi dậy con, từ đó vợ chồng xảy ra cãi chửi lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Mặt khác đến tháng 3/2017 chị Cấn Phương N đã có hành vi vi phạm pháp luật và đã bị cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lào Cai khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với chị Cấn Phương N về hành vi "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hiện cơ quan điều tra đang điều tra làm rõ hành vi phạm pháp luật của chị Cấn Phương N để xử lý theo quy định của pháp luật. Khi mâu thuẫn xảy ra anh chị đã được gia đình đôi bên, anh em bạn bè khuyên giải nhưng đều không có kết quả. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 3/2017 cho đến nay. Trong thời gian này anh chị không quan tâm thăm hỏi gì nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn ngày 05/10/2017 anh Nguyễn Trung H làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với chị Cấn Phương N với lý do tình cảm vợ chồng không còn. Chị Cấn Phương N không nhất trí ly hôn với anh Nguyễn Trung H mà chị xin được đoàn tụ để vợ chồng nuôi dạy con chung.
Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Trung H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn đối với chị Cấn Phương N với lý do tình cảm vợ chồng không còn mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:
Xử cho anh Nguyễn Trung H được ly hôn với chị Cấn Phương N.
Xét yêu cầu của anh Nguyễn Trung H và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với các qui định tại Khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân và gia đình Việt Nam nên cần được chấp nhận. Bởi lẽ Chị Cấn Phương N xin đoàn tụ gia đình để nuôi dậy con nhưng bản thân chị không đưa ra được biện pháp, căn cứ nào để vợ chồng khắc phục mâu thuẫn mà thậm chí để cho mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn.
[2]Về con chung: Anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều xác nhận vợ chồng chung sống với nhau đến nay đã có 01 con chung. Cháu Nguyễn Phương N; Sinh ngày 23/10/2014, hiện cháu khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng với anh Nguyễn Trung H tại tổ 7 phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phương N. Không bên nào yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Xử giao cháu Nguyễn Phương N; Sinh ngày 23/10/2014 cho anh Nguyễn Trung H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Phương N trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Cấn Phương N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Tại phiên tòa xét yêu cầu của anh Nguyễn Trung H về việc xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phương N và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ. Bởi lẽ kể từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân thì bản thân anh Nguyễn Trung H là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Phương N. Hiện tại cháu khỏe mạnh phát triển bình thường, ăn học ổn định. Mặt khác chị Cấn Phương N đã có hành vi vi phạm pháp luật và đã bị cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lào Cai khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với chị Cấn Phương N về hành vi "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hiện cơ quan điều tra đang điều tra làm rõ hành vi phạm pháp luật của chị Cấn Phương N để xử lý theo quy định của pháp luật. Do vậy cần giữ nguyên hiện trạng về việc nuôi dưỡng con chung theo yêu cầu của anh Nguyễn Trung H là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì quyền lợi về mọi mặt của cháu nhỏ mới đảm bảo.
[3]Về tài sản chung: Anh Nguyễn Trung H và chị Cấn Phương N đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị chưa tạo dựng được tài sản gì chung. Nên anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Về công nợ chung: Trong thời gian chung sống anh chị đếu xác nhận vợ chồng không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì, nên anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội động xét xử không đề cập giải quyết.
[5]. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Khoản 1 Điều 56 Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Trung H ly hôn với chị Cấn Phương N.
2.Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Phương N - ngày 23/10/2014 cho anh Nguyễn Trung H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Phương N trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Cấn Phương N không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.
Sau khi ly hôn, chị Cấn Phương N có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3.Về án phí: Anh Nguyễn Trung H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: 0007347 ngày 12/10/2017 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Xác nhận anh Nguyễn Trung H đã nộp đủ tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 05/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung
Số hiệu: | 03/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về