TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU- THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 02/2021/LĐ-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TRANH CHẤP TRỢ CẤP THÔI VIỆC
Ngày 26 tháng 01 năm 20210, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng tiến hành công khai xét xử vụ án dân sự thụ lý số 07/2020/TLST – LĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc “ Tranh chấp trợ cấp thôi việc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXX-LĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn D – Sinh năm: 1968 – Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố N, xã N, huyện M, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Minh H – Sinh năm: 1963 – Địa chỉ:
130 P, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Theo văn bản ủy quyền ngày 04/11/2020. Có mặt.
* Bị đơn: Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ – Trụ sở tại: 503 N, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Đại diện theo pháp luật: Ông Từ Văn Đ – Sinh năm: 1962 - Chức vụ: Giám đốc – Địa chỉ: 503 N, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/09/2020, đơn sửa đổi bổ sung ngày 30/10/2020, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Trịnh Văn D là công nhân khoan máy địa chất của Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ. Ngày 31/12/2019 Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ đã có Quyết định số 34/QĐ-TVXD3-TCHC chấm dứt Hợp đồng lao động với ông kể từ ngày 31/12/2019. Từ khi chấm dứt hợp đồng lao động đến nay đã hơn 01 năm nhưng Công ty vẫn không thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông Trịnh Văn D, mặc dù ông đã yêu cầu nhưng Công ty vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ chi trả.
Tại thời điểm ông D nghỉ việc mức lương được hưởng và cũng là mức lương để tham gia bảo hiểm với số tiền là 6.864.600đ ( Sáu triệu tám trăm sáu mươi tư ngàn sáu trăm đồng). Thời gian công tác của ông tại Công ty từ tháng 01 năm 2000 cho đến tháng 12 năm 2019, nhưng thời gian để ông yêu cầu tính trợ cấp thôi việc từ tháng 01 năm 2002 cho đến tháng 12 năm 2008 với thời gian là 09 năm, mỗi năm ½ tháng lương.
Do vậy, ông D đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ phải thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông theo mức mỗi năm lao động được ½ tháng lương. Cụ thể là 9 năm x 6.864.600/2 = 30.890.700đ ( Ba mươi triệu tám trăm chín mươi ngàn sáu trăm đồng).
* Tại văn bản trình bày ngày 19/11/2020, biên bản hòa giải ngày 02/12/2020 Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ (gọi tắt là Công ty) ông Trần Văn Đ là đại diện theo pháp luật của Công ty trình bày:
Ông Trịnh Văn D là công nhân khoan địa chất của Công ty, chấm dứt hợp đồng vào ngày 31/12/2019, lý do chấm dứt hợp đồng là do Công ty dừng hoạt động để tái cơ cấu. Đồng thời Công ty thừa nhận hiện nay Công ty còn nợ ông Trịnh Văn D số tiền trợ cấp thôi việc là 30.890700đ ( Ba mươi triệu tám trăm chín mươi ngàn sáu trăm đồng).
Lý do Công ty còn nợ tiền ông D là do Công ty trực thuộc Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện I, theo chủ trương của Chính phủ thì các Công ty con Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện I sẽ giải thể để xác nhập thành một đoàn khảo sát. Hiện công ty đang làm thủ tục giải thể theo quy định của pháp luật, tài chính của Công ty phụ thuộc vào Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện I nên chưa có tiền để chi trả cho ông Ngọc. Tài chính của Công ty đang gặp khó khăn nên đề nghị ông D tạo điều kiện để Công ty trả tiền vào 30/6/2021.
Tại phiên tòa ông Trần Văn Đ là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã thụ lý vụ án đúng về thẩm quyền, quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các bước thủ tục tố tụng đảm bảo để các bên đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền của mình. Các bên đương sự đã được tiếp cận đầy đủ tài liệu, chứng cứ và có ý kiến về vụ án.
Tại phiên tòa, đại diện theo pháp luật của bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX vẫn xét xử khi vắng mặt của Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Ông Trịnh Văn D là người lao động làm việc tại Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ từ tháng 01/2000 đến 31/12/2019 theo Hợp đồng lao động đã được ký kết trên cơ sở tự nguyện, đúng quy định của Luật lao động. Quá trình làm việc, ông D đã được Công ty đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2009 đến tháng 12/2019. Ngày 31/12/2019 Công ty đã ra Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 34/QĐ- TVXD3-TCHC. Nhưng, đến nay, Công ty vẫn chưa thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông D là vi phạm Điều 47 Bộ Luật lao động năm 2012. Do đó việc ông D khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng là có cơ sở. Căn cứ vào thời gian lao động của ông D chưa được đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2000 đến tháng 12/2008 là 09 năm, mức tiền lương 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt hợp đồng lao động là 6.864.600đ. Theo quy định tại Điều 48 Bộ Luật lao động năm 2012 ông D yêu cầu số tiền trợ cấp thôi việc là 09 năm x 6.864.600/2 = 30.890.700đ là có căn cứ chấp nhận. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử buộc Công ty Tư vấn xây dựng điện 3 Đà Nẵng phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa và những tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đây là vụ án tranh chấp về trợ cấp khi chấp dứt Hợp đồng lao động, bị đơn có trụ sở tại 503 N, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng nên Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết là đúng quy định về thẩm quyền.
[1.2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi đầy đủ văn bản tố tụng cho các bên đương sự, tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều đã được tiếp cận chứng cứ, tham gia hòa giải và có ý kiến đầy đủ về vụ án.
Tại phiên tòa ông Trần Văn Đ là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiếp tục xét xử khi vắng mặt của Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên hòa giải, nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận xác lập quan hệ hợp đồng lao động với nhau, thời điểm chấm dứt hợp đồng, lý do chấm dứt hợp đồng là do phía Công ty dừng hoạt động để tái cơ cấu. Về mức lương 6 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động của ông Trịnh Văn D do cơ quan Bảo hiểm xã hội cung cấp là 6.864.600đ đúng với mức lương thể hiện tại Quyết định chấp dứt hợp đồng lao động số 34/QĐ-TVXD3-TCHC ngày 31/12/2019. Thời gian ông D chưa được đóng bảo hiểm thất nghiệp là từ tháng 01/2000 đến tháng 12/2008 là 09 năm. Công ty cũng thừa nhận hiện nay còn nợ tiền trợ cấp thôi việc đối với ông Trịnh Văn D là 30.890.700đ đúng bằng số tiền ông D đã khởi kiện yêu cầu thanh toán, tuy nhiên do điều kiện tài chính Công ty gặp khó khăn nên đề nghị ông D tạo điều kiện để Công ty có thời gian chi trả.
Như vậy, cùng với yêu cầu khởi kiện, nguyên đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh hiện nay Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ còn nợ tiền trợ cấp thôi việc đối với nguyên đơn tổng số tiền 30.890700đ ( Ba mươi triệu tám trăm chín mươi ngàn sáu trăm đồng). Bị đơn cũng thừa nhận nội dung này và các bên chỉ không thống nhất với nhau được về thời điểm thanh toán.
HĐXX xét thấy việc Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ chấm dứt Hợp đồng lao động với ông Trịnh Văn D từ ngày 31/12/2019, đến nay đã hơn 12 tháng nhưng Công ty vẫn chưa thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông D là vi phạm quy định tại Điều 47 Bộ Luật lao động năm 2012. Do đó căn cứ Điều 48 Bộ Luật Lao động năm 2012, ông Trịnh Văn D khởi kiện yêu cầu Công ty phải thanh toán số tiền trợ cấp thôi việc 30.890700đ ( Ba mươi triệu tám trăm chín mươi ngàn sáu trăm đồng) là có căn cứ chấp nhận buộc Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ phải có trách nhiệm trả tiền cho ông D.
[4] Về án phí, căn cứ quy định tại Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng chấp nhận. Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn tiền tạm ứng án phí và không phải chịu tiền án phí lao động sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 32; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự; Điều 47, Điều 48 Bộ Luật lao động năm 2012; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Văn D đối với Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ về việc yêu cầu “Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động” Xử 1. Buộc Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ phải trả cho ông Trịnh Văn D số tiền trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động tổng cộng là 30.890.700đ ( Ba mươi triệu tám trăm chín mươi ngàn sáu trăm đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người có nghĩa vụ thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Về án phí: Công ty TNHH MTV Tư vấn xây dựng Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 926.721đ( Chín trăm hai mươi sáu ngàn bảy trăm hai mươi mốt đồng) Ông Trịnh Văn D không phải chịu án phí lao động sơ thẩm, và được miễn nộp tạm ứng án phí lao động sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.
Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết trích sao bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 02/2021/LĐ-ST ngày 10/12/2020 về tranh chấp trợ cấp thôi việc
Số hiệu: | 02/2021/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 10/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về