Bản án 02/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 02/2021/HSST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2020/HSST, ngày 10/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST- HS ngày 29/12/2020 đối bị cáo:

1. Họ và tên: LÊ XUÂN N ; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không Sinh ngày 04 tháng 03 năm 1967; Tại: Cẩm Tân, Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn Do Thượng, xã Cẩm Tân, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Văn Lung ; (Đã chết) và bà: Phạm Thị Tứ; Sinh năm: 1936; Vợ: Nguyễn Thị Thanh (Đã chết); có 02 con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2012.Tiền án, tiền sự: Không.Nhân thân: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích).

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: BÙI VĂN H. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Bất Sinh ngày 22 tháng 08 năm 1987; Tại: Cẩm Long, Cẩm Thủy, Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Thôn Vân Ngọc, xã Cẩm Long, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa:

07/12; Nghề nghiệp:Lao động tự do.Con ông: Bùi Quốc Tỵ;

Sinh năm: 1965 và bà: Quách Thị Tươi - Sinh năm: 1966 và vợ:Trần Thị Huế (Đã ly hôn) và 01 con sinh năm: 2009. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

Ông Phạm Giang Đ – Thôn N, xã C, huyện C, Thanh Hóa. Vắng mặt

Ông Lê Văn H : Thôn D, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt

Ông Lê Quang T: Thôn D, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt

Ông Phạm Văn Tính: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt

Ông Hoàng Văn V: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 08/09/2020, Lê Xuan N sử dụng chiếc xe môtô nhãn hiệu “HONDA WAVE”, màu đỏ, gắn biển kiểm soát 36L2–3808 chở Bùi Văn H đi tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực gần nhà máy thuốc lá thuộc huyện H, tỉnh Thanh Hóa (N và H đều không nhớ địa chỉ cụ thể) thì dừng lại. Tại đây, N bảo H đứng chờ ở ven đường để N đi bộ vào một ngõ gần khu vực nhà máy thuốc lá thì gặp một người thanh N (N không biết họ tên và địa chỉ), và hỏi mua ma túy của người này. N đã hỏi mua của người đó 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) thì được người đó đưa cho 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trên có các dòng chữ màu xanh (loại túi đựng bơm tiêm), bên trong có chứa: 01 (một) gói giấy màu trắng, chứa ma túy, loại Heroin; 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong đựng 01 (một) viên ma túy, dạng viên nén, loại Methamphetamine (số ma túy này là do người thanh N tặng thêm). Sau khi mua được ma túy, N cầm túi ma túy trên tay và quay lại chỗ H đang đứng chờ. Sau đó, Lê Xuan N điều khiển xe môtô chở Bùi Văn H đi về huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Đến khoảng 19 giờ 45 phút ngày 08/09/2020, khi N và H đi đến đoạn đường thuộc thôn D, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện C kiểm tra hành chính. Lê Xuan N đã tự nguyện giao nộp số ma túy cho Công an.

Tại bản kết luận giám định số 2524/PC09 ngày 11 tháng 9 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn đựng trong gói giấy màu trắng và gói giấy màu trắng bên ngoài bọc nilon màu đen gửi giám định có tổng khối lượng 0,544g (Không phẩy năm bốn bốn gam) là ma túy, loại Heroin.

- 01 (một) viên nén hình tròn màu hồng gửi giám định có tổng khối lượng 0,098g (Không phẩy không chín tám gam) là ma túy, loại Methamphetamine Về xử lý vật chứng: - 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, bên trong có chứa chất ma túy đang được bảo quản tại Kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện C;

- Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu đỏ, gắn biển kiểm soát: 36L2-3808, số khung YX110-01881984, số máy LC152FMH01881984, xe đã qua sử dụng. Hiện chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an huyện C tách ra để tiếp tục xác minh làm rõ theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 02/2020/ CT-VKS-MT ngày 10/12/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã quyết định truy tố Lê Xuan N, Bùi Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Lê Xuan N, Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17; Điều 58: Điều 47; - Bộ luật Hình sự, Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 xử phạt Lê Xuan N từ 18 tháng – 24 tháng tù; Bùi Văn H từ 15 tháng- 20 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy. Về án phí bị cáo N phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Xuan N, bị cáo Bùi Văn H thừa nhận hành vi phạm tội được nêu trong bản cáo trạng là đúng.

Người làm chứng cũng có lời khai phù hợp với các tình tiết nêu trong bản cáo trạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên.Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 19 giờ 45 phút ngày 08/9/2020, tại thôn D, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Lê Xuan N và Bùi Văn H đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,544g (Không phẩy năm bốn bốn gam) ma túy, loại Heroin và 0,098g (Không phẩy không chín tám gam) ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của Lê Xuan N, Bùi Văn H đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố Lê Xuan N, Bùi Văn H là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét tính chất của vụ án thì đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, rủ nhau mua ma túy về sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Vì vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lê Xuan N là người khởi xướng và trực tiếp thực hiện việc mua ma túy nên phải chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo H. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1,Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Đối với bị cáo Bùi Văn H thành khẩn khai báo, không có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 – BLHS . Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5]. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Gồm một phong bì niêm phong bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn có trọng lượng còn lại sau giám định là 0,478g loại Heroin và 0,080 g chất bột màu hồng loại Methamphetamine nên tịch thu tiêu hủy.

[6].Về án phí: Các bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47; Điều 17; Điều 58- BLHS, Điều 106; Điều 136; Điều 333 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án (đối với cả hai bị cáo) khoản 2 Điều 51 BLHS (đối với bị cáo H).

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Xuân N, Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.

Bị cáo Bùi Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.

Về vật chứng vụ án: - Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong mẫu vật còn lại sau giám định là 0,478g loại Heroin và 0,080 g chất bột màu hồng loại Methamphetamine được niêm phong dán kín bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Triệu Nguyễn Tài A và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa (Theo biên bản giao nhận tang vật ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

Về án phí: Bị cáo Lê Xuân N; bị cáo Bùi Văn H phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;