Bản án 02/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 01/2021/TB-TA ngày 03 tháng 02 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 02/2021/TB-TA ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn Đ, sinh năm 1976; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn N, xã C, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Viết Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; có 02 đời vợ (đều đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án hình sự số 1790/HSPT ngày 29/11/2002 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xử phạt bị cáo 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2005 (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/12/2020, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 29/12/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Huy T, sinh năm 1992; trú tại: Thôn N, xã C, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương;

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1971 và ông Trần Văn M, sinh năm 1964; đều trú tại: Thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương.

(Những người làm chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút, ngày 26/12/2020, tại ngã ba thị trấn Tứ Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ đã phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại túi áo khoác phía trước bên phải Phạm Văn Đ đang mặc 01 bơm tiêm loại 3ml/cc, bên trong có chứa chất bột dạng cục mầu trắng. Đ khai đó là ma túy, loại Heroine, vừa mua được mục đích mang về sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra xác định: Bị cáo nghiện chất ma túy, khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 26/12/2020, Đ đã nhờ anh Phạm Huy T ở cùng thôn chở bị cáo từ nhà đến địa bàn xã Q, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng mục đích mua ma túy về sử dụng (nhưng không nói cho anh T biết). Khi đến xã Q, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, Đ xuống xe đi bộ để tìm mua ma túy. Bị cáo đã gặp và mua của một người đàn ông (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ) số ma túy trên hết 200.000 đồng, sau khi mua ma túy xong bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua được vào túi áo khoác và nhờ T chở về đến ngã ba thị trấn Tứ Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương thì bị bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 28/12/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng cục) mầu trắng trong bơm kim tiêm được niêm phong trong phong bì, ghi thu của Phạm Văn Đ gửi đến giám định khối lượng 0,265g (Không phẩy hai trăm sáu mươi lăm gam) là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS-TK, ngày 20/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX ) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép ma túy”, xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), tịch thu tiêu hủy 0,230g Heroine đựng trong bơm kim tiêm được hoàn lại sau giám định; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Văn Đ đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đã truy tố, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Vào hồi 14 giờ 20 phút, ngày 26/12/2020, tại ngã ba thị trấn Tứ Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,265g ma túy, là loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, song với mục đích để sử dụng, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Số ma túy là loại Heroine mà bị cáo tàng trữ có khối lượng là 0,265g nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. Như vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Mặc dù nhận thức được ma tuý không chỉ gây tác hại rất lớn về sức khỏe cho chính người sử dụng mà còn làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì mục đích sử dụng cho bản thân để thoả mãn cơn nghiện và ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn dấn thân vào con đường phạm tội. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng là người có nhân thân xấu, thể hiện năm 2002 đã bị kết án 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Khối lượng chất ma túy là loại Heroine bị cáo tàng trữ trái phép, sau khi giám định còn lại 0,230g đựng trong bơm kim tiêm là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với anh Phạm Huy T chở Đ đi nhưng không biết mục đích bị cáo đi mua ma túy nên không phải chịu trách nhiệm; đối với người đàn ông bán ma túy cho Đ, Cơ quan điều tra không làm rõ được tên, tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS;

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 17 (mười bảy) tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 26/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,230g Heroine đựng trong bơm kim tiêm được hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 28/01/2021).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;