TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH T
BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ H1 VÀ ANH T2
Ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 218/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H1, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Thôn Ng, xã TL, huyện T1, tỉnh T (chị H1 vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1994.
Địa chỉ: Thôn TC, xã NC, huyện T1, tỉnh T (anh T2 vắng mặt lần thứ hai không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị H1 trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1994, có địa chỉ tại thôn TC, xã NC, huyện T1, tỉnh T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 03/10/2016 được Uỷ ban nhân dân xã NC, huyện T1, tỉnh T chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, anh T2 không chịu tu chí làm ăn nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T2.
Về con chung, theo chị H1, chị và anh T2 có 02 con chung là Nguyễn Thị YN, sinh ngày 30/9/2015 và Nguyễn GK, sinh ngày 17/6/2019, hiện nay cả hai con chung đang ở với chị H1. Khi ly hôn chị H1 đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung; chị H1 không yêu cầu anh T2 phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung và nợ chung, chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho anh Nguyễn Văn T2 thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải tuy nhiên anh T2 không đến Tòa án.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/11/2020,ông Nguyễn Công H, sinh năm 1940, trú tại thôn TC, xã NC, huyện T1 (ông H là ông nội anh Nguyễn Văn T2) trình bày:
Ông là ông nội của anh Nguyễn Văn T2. Theo ông H, chị Hoàng Thị H1 và anh Nguyễn Thanh T2 tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 03/10/2016 tại UBND xã NC. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại thôn TC, xã NC, huyện T1, tỉnh T. Quá trình chung sống, anh T2 tuy có ham chơi, không lo cho vợ con nhưng nếu chị H1 có đơn xin ly hôn thì nguyện vọng của gia đình là muốn vợ chồng về đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái. Anh T2 có biết việc chị H1 xin ly hôn nhưng anh T2 không nhận văn bản, cũng không đến Tòa án để làm việc.
Theo ông Hàm, chị H1 và anh T2 có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị YN, sinh ngày 30/9/2015 và cháu Nguyễn GK, sinh ngày 17/6/2019. Hiện hai cháu đang ở cùng với mẹ. Nếu ly hôn về nuôi con chung đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Theo ông H, chị H1 và anh T2 có tài sản chung hay nợ chung ông không nắm được.
Ông H đã được đọc, công nhận lời khai tuy nhiên ông H không ký văn bản, biên bản có sự chứng kiến của ông Nguyễn Minh T3, cán bộ tư pháp và chữ ký xác nhận của ông Đoàn Văn V, Phó Chủ tịch UBND xã NC.
Tại biên bản xác minh ngày 19/11/2020 tại Trụ sở UBND xã NC, huyện T1, tỉnh T, ông Đoàn Văn Vi, Phó Chủ tịch UBND và ông Nguyễn Minh T3, Cán bộ Tư pháp UBND xã NC cung cấp:
Về quan hệ hôn nhân, chị Hoàng Thị H1 và anh Nguyễn Văn T2 tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND NC, huyện T1, tỉnh T vào ngày 03/10/2016. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại xã NC. Quán trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T2 ham chơi, không quan tâm đến vợ con. Nay chị H1 có đơn xin ly hôn anh T2, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về con chung Anh T2 và chị H1 có 02 con chung là Nguyễn Thị YN, sinh ngày 30/9/2015 và Nguyễn GK, sinh ngày 17/6/2019. Hiện nay, cả hai con chung đang ở với chị H1. Anh chị ly hôn, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình chung sống anh T2, chị H1 có tài sản chung, nợ chung hay không địa phương không nắm được.
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị H1 có mặt, anh T2 không đến phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 06/01/2021.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh T phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Hoàng Thị H1 được ly hôn anh Nguyễn Văn T2. Về con chung, giao cả 02 con chung cho chị H1 được trực tiếp nuôi dưỡng, anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H1; anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Hoàng Thị H1 vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Nguyễn Văn T2 vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị H1 và anh T2.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Chị Hoàng Thị H1 và anh Nguyễn Văn T2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị H1 cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, anh T2 ham chơi, không chăm lo cho vợ con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.
[2.2] Chị H1 có đơn xin ly hôn, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, thông báo đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh T2 không đến Tòa án. Tòa án mở phiên tòa, cả hai lần anh T2 đều không đến, anh T2 cũng không có ý kiến, phương án để vợ chồng về chung sống đoàn tụ, chị H1 kiên quyết yêu cầu ly hôn. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị H1 và anh T2 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Hoàng Thị H1 được ly hôn anh Nguyễn Văn T2.
[3] Về con chung: Anh T2 và chị H1 có 02 con chung là Nguyễn Thị YN, sinh ngày 30/9/2015 và Nguyễn GK, sinh ngày 17/6/2019. Hiện nay, cả hai con chung đang ở với chị H1. Do anh T2 không đến Tòa án, không thể hiện quan điểm về con chung nên cần giao cả 02 con chung cho chị H1 được trực tiếp nuôi dưỡng, anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H1; anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Hoàng Thị H1 phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho chị Hoàng Thị H1 được ly hôn anh Nguyễn Văn T2.
2. Về con chung:
Giao cho chị Hoàng Thị H1 được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung là Nguyễn Thị YN, sinh ngày 30/9/2015 và Nguyễn GK, sinh ngày 17/6/2019. Anh Nguyễn Văn T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H1. Anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở;
việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
3. Về tài sản chung:
Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí:
Nguyên đơn là chị Hoàng Thị H1 phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị H1 đã nộp theo Biên lai số 0009701 ngày 20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh T. Chị Hoàng Thị H1 đã nộp đủ án phí.
5. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.
Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị H1 và anh T2
Số hiệu: | 02/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về