Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khaivụ án thụ lý số: 110 /2020/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 12 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị H ( tên gọi khác là Hoàng Hoài Y) Địa chỉ: thôn 3 L, xã N, huyện H, tỉnh H. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: anh Lý Ngọc M.

Địa chỉ: thôn 3 L, xã N, huyện H, tỉnh H. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Nguyên đơn là chị H trình bày như sau:

Chị Y và anh M tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện H, tỉnh H vào ngày 26/8/2006. Sau khi đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại nhà bố mẹ anh M tại xã N, huyện H đến năm 2010 thì cùng nhau ra ở riêng đến 2019 thì vợ chồng không chung sống cùng nhau cho đến nhay. Nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh M hay đi chơi và khi chị Y nhắc nhở thì đánh chị Y nhiều lần. Từ tháng 11 năm 2019 đến nay, vợ chồng mỗi người tự làm một nơi nên không quan tâm, chăm sóc đến nhau và không thống nhất với nhau trong mọi công việc của cuộc sống gia đình. Nay chị Y thấy vợ chồng không thể khắc phục được mâu thuẫn nên yêu cầu được ly hôn với anh M.

Về con chung: chị Y và anh M có con chung là Lý Quang Vinh; sinh ngày 25/9/2007 và cháu Lý Thị Vân Anh; sinh ngày 13/9/2011. Khi ly hôn, chị Y đề nghị anh M trực tiếp nuôi cháu V. Chị Y yêu cầu trực tiếp nuôi cháu A. Không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, công nợ chung: chị Y và anh M có tài sản chung, công nợ chung nhưng tự thỏa thuận, chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Lý Ngọc M có việc bận không đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án được nên có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt cho anh M đúng với nội dung mà anh M đã khai với Tòa án gồm nội dung như sau: anh M và chị Y có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện H. Sau khi đăng ký kết hôn thì chị Y và anh M có chung sống đến năm 2019 thì chị Y bỏ đi làm thuê và không về chung sống với anh M đã được hơn một năm. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do cả hai vợ chồng đều có lỗi vì chị Y hay chửi anh M nên anh M mới đánh chị Y. Nay anh M nhất trí ly hôn với chị Y.Về con chung, chị Y và anh M có con chung là Lý Quang Vinh; sinh ngày 25/9/2007 và cháu Lý Thị Vân Anh; sinh ngày 13/9/2011. Khi ly hôn, anh M nhất trí trực tiếp nuôi cháu V và đồng ý cho chị Y trực tiếp nuôi cháu A. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, công nợ chung: chị Y và anh M có tài sản chung, công nợ chung nhưng anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H có ý kiến về thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi nghị án:

Tòa án đã thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật đang tranh chấp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 48, 49, 51 của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.Về yêu cầu khởi kiện, anh M và chị Y có đăng ký kết hôn sau đó chị Y bỏ đi và vợ chồng đã không chung sống cùng nhau hơn một năm. Mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, đề nghị xử cho chị H được ly hôn anh Lý Ngọc M.

Về con chung: giao cho chị Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. giáo dục cháu A còn anh M nuôi cháu V đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lý Ngọc M và yêu cầu được nuôi con chung. Đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Y và anh M đều có đơn xin xét xử vắng mặt do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự là đúng quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án, các lời khai của nguyên đơn là chị H và các lời khai của bị đơn là anh Lý Ngọc M thấy rằng: chị Y và anh M có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện H vào ngày 26/8/2006. Sau thời gian cùng chung sống thì vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nên đã không chung sống cùng nhau, không quan tâm chăm sóc nhau từ tháng 11 năm 2019 cho đến nay. Ngoài ra, khi vợ chồng cãi nhau thì anh M có đánh chị Y. Như vậy, anh M và chị Y có xảy ra bạo lực gia đình và đã sống ly thân đã được hơn một năm. Mục đích hôn nhân không đạt được. Anh M cũng thừa nhận vợ đi làm cũng không bàn bạc với anh và vợ chồng không thống nhất được với nhau về các vấn đề cuộc sống gia đình và nhất trí ly hôn nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y.

[3] Về con chung: Chị Y và anh M có hai con chung là Lý Quang Vinh; sinh ngày 25/9/2007 và Lý Thị Vân Anh; sinh ngày 13/9/2011. Cả anh M và chị Y đều có đủ sức khỏe và điều kiện chăm sóc con. Đồng thời, nguyện vọng của các con là cháu A muốn được ở cùng mẹ là chị Y còn cháu V có nguyện vọng ở cùng bố là anh M và ý kiến của anh M cũng nhất trí với yêu cầu của chị Y và phù hợp với nguyện vọng của các con. Do đó, khi ly hôn cần giao cho anh M trực tiếp nuôi cháu V và giao cho chị Y trực tiếp nuôi cháu A cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, công nợ chung: chị Y và anh M có tài sản chung, công nợ chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H.

Tuyên xử cho chị H (tên gọi khác là Hoàng Hoài Y) được ly hôn anh Lý Ngọc M.

* Về con chung: Chị Y là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lý Thị Vân Anh; sinh ngày 13/9/2011 đến khi cháu A đủ 18 tuổi. Anh M là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lý Quang Vinh; sinh ngày 25/9/2007 đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở quyền này. Vì quyền lợi của con chung, sau này các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung, công nợ chung: chị Y và anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về án phí: chị H phải chịu 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng)tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H theo biên lai số 04398 ngày 16 tháng 12 năm 2020.

* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoàng Su Phì - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;