TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 26 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 41/2017/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Ly Thị H, sinh năm 1992; Địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Bị đơn: Anh Tải Sào T, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Ly Thị H trình bày:
Về hôn nhân: Chị Ly Thị H và anh Tải Sào T đăng ký kết hôn ngày 29 tháng 12 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Trước khi lấy nhau chị H và anh T không được tìm hiểu và yêu nhau mà do bố mẹ hai bên sắp đặt và tổ chức cưới theo phong tục tập quán địa phương. Do không được tìm hiểu và yêu nhau nên trong cuộc sống chị H và anh T thường xuyên xảy ra cãi vã. Anh T thường đi uống rượu về nhà chửi bới, đánh đập chị H nhiều lần. Sau nhiều lần bị đánh đập chị H đã mời hai bên gia đình đến hòa giải. Ngày 26/5/2015 anh T đã viết cam đoan không uống rượu và không chửi bới lung tung, có trách nhiệm với vợ và chăm sóc con. Sau đó anh T lại đánh đập, chửi bới, lăng mạ, xúc phạm chị H. Mâu thuẫn giữa chị H và anh T ngày càng trầm trọng. Tháng 3 năm 2016 chị H bỏ về nhà mẹ đẻ để ở. Mẹ đẻ chị H không cho chị H ở. Chị H phải đến ở nhà bác ruột là ông Lù Văn S ở thôn X xã X huyện Xín Mần và ly thân với anh T cho đến bây giờ. Chị H nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với anh T được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Tải Sào T.
Về con: Con riêng, không có. Con chung, chị Ly Thị H và anh Tải Sào T có một con chung là cháu Tải Thị N, sinh ngày 08/03/2015. Chị Ly Thị H đề nghị được nuôi cháu N đến trưởng thành. Chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại Bản tự khai ngày 13 tháng 12 năm 2017, Biên bản lấy lời khai số 01/BBLLK ngày 13/12/2017, phiên hòa giải ngày 30/01/2018 và tại phiên tòa ngày hôm nay bị đơn anh Tải Sào T trình bày:
Về hôn nhân: Anh Tải Sào T thừa nhận việc kết hôn giữa anh T và chị H là do gia đình hai bên sắp đặt, hai người không được tìm hiểu và yêu nhau. Anh Tải Sào T thừa nhận trong cuộc sống hàng ngày gia đình thường nảy sinh mâu thuẫn, anh T uống rượu say về nhà chửi mắng chị H. Anh T nhận thấy mâu thuẫn gia đình chưa đến mức phải ly hôn nên không đồng ý ly hôn với chị H.
Về con: Con riêng, không có. Con chung, anh T và chị H có một con chung tên là Tải Thị N sinh ngày 08 tháng 3 năm 2015 hiện Ly Thị H đang nuôi dưỡng.
Về tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ anh T không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử này đã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ, các thông báo hòa giải nhưng anh Trường không chấp hành.
Về nội dung vụ án: Viện kiểm sát nhân dân huyện Xín Mần đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Xử cho chị H được ly hôn với anh T.
Về con chung: Giao cháu Tải Thị N, sinh ngày 08/03/2015 cho chị Ly Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và lao động tự túc được. Anh Tải Sào T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền đi lại thăm và chăm sóc con chung không ai được cản trở.
Về quan hệ tài sản: Giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có đơn đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang nhận định:
[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án ly hôn, nguyên đơn trú tại thôn X xã X huyện Xín Mần; bị đơn trú tại thôn C xã N huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang, căn cứ khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang đã tống đạt thông báo thụ lý và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Tải Sào T. Thời gian đầu anh T chấp hành đúng theo Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau đó anh T không chịu chấp hành theo Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự dẫn đến phiên hòa giải ngày 05/01/2018 và phiên hòa giải ngày 01/3/218 không thể hòa giải được gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa ngày 12/4/2018 anh T vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa ngày hôm nay anh T có mặt.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử nhận thấy chị Ly Thị H và anh Tải Sào T kết hôn trên cơ sở do gia đình hai bên sắp đặt và cưới hỏi theo phong tục địa phương. Tuy không được tìm hiểu và yêu nhau nhưng chị H và anh T vẫn đồng ý đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang ngày 29/12/2011 và về chung sống với nhau như vợ chồng. Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chị H và anh T sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh T thường xuyên uống rượu về nhà chửi bới, lăng mạ, xúc phạm, đánh đập chị H. Gia đình đã hòa giải nhiều lần, anh T đã làm cam đoan không uống rượu, không chửi bới, không đánh đập chị H nữa nhưng sau đó anh T vẫn uống rượu, vẫn chửi bới, vẫn đánh đập chị H. Tháng 3 năm 2016 chị H không ở được đã phải về nhà mẹ đẻ để ở nhưng mẹ đẻ chị H không cho chị H ở. Chị H phải đến ở nhà bác ruột là ông Lù Văn S ở thôn X xã X huyện Xín Mần sinh sống và ly thân với anh T đến bây giờ. Qua xác minh tại địa phương cho thấy trong quá trình chung sống chị H và anh T thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh T hay uống rượu về nhà chửi bới, đánh đập chị H (Biên bản lấy lời khai anh Thèn Văn C, Trưởng thôn H xã T huyện Xín Mần là người trực tiếp hòa giải mâu thuẫn gia đình anh T chị H ngày 26/5/2015; Biên bản lấy lời khai bà Ly Già D, là mẹ đẻ chị H ở thôn H xã T huyện Xín Mần. Biên bản xác minh ông Thèn Sào S, nguyên Trưởng thôn C xã N huyện Xín Mần, người trực tiếp cùng anh Thèn Văn C hòa giải mâu thuẫn gia đình anh T chị H ngày 26/5/2015). Chị H đã ly thân với anh T từ tháng 3 năm 2016 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà ngày hôm nay chị H đều có quan điểm xin ly hôn anh T. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị H là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị H được ly hôn anh T là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3.2]. Về con: Con riêng, không có. Con chung, chị H và anh T có một con chung là cháu Tải Thị N, sinh ngày 08/03/2015. Hiện nay cháu N đang sinh sống cùng chị H. Xét nguyện vọng nuôi con chung của chị H là tự nguyện và chính đáng nên cần được chấp nhận cho chị H được nuôi con là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T cũng không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên không buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp và cần được chấp nhận.
[3.3]. Về quan hệ tài sản: Giải quyết bằng một vụ án khác khi đương sự có đơn đề nghị.
[4]. Về án phí sơ thẩm: Chị Ly Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[5] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Ly Thị H được ly hôn anh Tải Sào T. Giấy chứng nhận kết hôn số 15 quyển số 02 do Ủy ban nhân dân xã T huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Giao cháu Tải Thị N, sinh ngày 08/03/2015 cho chị Ly Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và lao động tự túc được. Anh Tải Sào T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H. Anh T có quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
3. Về quan hệ tài sản: Giải quyết bằng một vụ án khác khi đương sự có đơn đề nghị.
4. Về án phí sơ thẩm: Chị Ly Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: 03867 ngày 13 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang. Chị Ly Thị H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Nguyên đơn, bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 26/04/2018 tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 02/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xín Mần - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về