TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO PH, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 02/2019/DSST NGÀY 06/12/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 06 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 05/2019/TLST-DS ngày 04 tháng 9 năm 2019 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXX-ST ngày 12 tháng 11 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/QĐ- HPT ngày 29 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Bùi Văn N, sinh năm 1970
Nơi cư trú: Xóm Đồng M, xã Dũng Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình, (Có mặt).
Bị đơn: Anh Bùi Văn N, sinh năm 1975
Nơi cư trú: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình, (Vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Bùi Thị Ch, sinh năm 1974
Nơi cư trú: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);
2. Chị Bùi Thị M, sinh năm 1978
Nơi cư trú: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình (Có mặt);
3. Chị Bùi Thị N, sinh năm 1972
Nơi cư trú: Xóm Bãi B 2, xã Dũng Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);
4. Chị Bùi Thị N, sinh năm 1981
Nơi cư trú: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);
5. Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình
Địa chỉ: Khu 2, thị trấn Cao Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Xuân H - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Cao Ph và ông Vũ Đình B – Chánh thanh tra Nhà nước huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình; Ông Lê Xuân H và ông Vũ Đình B (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 21/6/2018 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Bùi Văn Nộ trình bày:
Thửa đất số 13, tờ bản đồ số 02, Diện tích 6.785m2 tại xóm Quyền, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình là của bố mẹ anh Bùi Văn N là ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H khai phá từ những năm 1976. Đến năm 1990 Nhà nước có chủ chương đo đạc đất và lập thủ tục kê khai, quy chủ. Đến ngày 01/02/1991 anh Bùi Văn N được Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Ủy ban nhân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H có 05 người con là anh Bùi Văn N, anh Bùi Văn N, chị Bùi Thị N, chị Bùi Thị M và chị Bùi Thị N.
Năm 1992 vợ anh N chết, năm 1993 anh N lấy người vợ thứ hai và đi ở rể bên quê vợ thuộc xã khác, không sống chung cùng bố mẹ cho đến nay.
Năm 1995 anh N đi lấy vợ, sau đó được bố mẹ cho khoảng 5.000m2 đất ra ở riêng. Năm 2008 anh N bán hết phần đất của mình, quay về ở cùng với bố mẹ. Năm 2015 bà H chết; năm 2017 ông Ở chết, trước khi chết ông Ở, bà H không để lại di chúc. Hiện nay anh N vẫn đang sử dụng nhà và thửa đất nêu trên.
Sau khi bố mẹ chết, anh N cho rằng nhà và đất là của mình được bố mẹ cho và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên anh yêu cầu anh N phải trả lại đất, nhưng anh N không đồng ý. Sự việc trên đã được chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Do vậy, anh N khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Cao ph đề nghị giải quyết.
Tại phiên tòa anh N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đưa ra một số ý kiến như sau:
- Anh N cho rằng, về nguồn gốc sử dụng đất là do bố, mẹ khai phá từ những năm 1976 được hai khu đất khác nhau và đã chia cho hai anh em (N, N) mỗi người một khu, ai cũng được bố, mẹ cho.
- Việc mình (N) được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng theo quy định tại Thông tư số 302/TT/ĐKTK ngày 28/10/1989 của Tổng cục quản lý ruộng đất; Nội dung ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ” hay cho “Ông” cũng là tài sản chung của vợ con anh N.
- Năm 2016, bố anh là ông Ở cho rằng, việc cấp Giấy chứng nhận cho anh N là không đúng nên đã có đơn khiếu nại. Ngày 09/12/2016 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh. Ngày 20/12/2016 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph Quyết định số 3430 về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Bùi Văn N. Anh N không đồng ý nên đã có đơn khiếu nại với hai quyết định trên. Tiếp đến, ngày 01/02/2018 Ủy ban nhân dân huyện Cao Phong ban hành Quyết định số 232/QĐ-UBND về việc hủy quyết định số 3317/QĐ-UBND ngày 09/12/2016 về việc thu hồi và quyết định số 3430 ngày 20/12/2016 về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với lý do, “Hộ gia đình không thống nhất được việc cử người đại diện cho hộ gia đình đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” nhưng cũng không đưa ra được căn cứ pháp lý để chứng minh. Anh N khẳng định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho mình vẫn còn nguyên giá trị pháp lý nên anh thường xuyên dùng nó vào việc thế chấp để vay vốn Ngân hàng. Cho đến nay đã 25 năm, ông Ở mới cho rằng, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mình là không đúng đối tượng. Như vậy, đã hết thời hiệu khiếu nại.
Từ những căn cứ nêu trên anh Bùi Văn N khẳng định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại Thửa đất số 13; Tờ bản đồ số 02; diện tích 6.785m2 do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cũ cấp cho anh Bùi Văn N ngày 01/02/1991 là đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa anh Bùi Văn N tự nguyện chia cho anh Bùi Văn N 1.000m2 đất và tài sản trên đất là một ngôi nhà sàn.
Bị đơn anh Bùi Văn N trình bày:
Bố, mẹ anh N là ông Bùi Văn Ởn và bà Bùi Thị H, sinh được 05 anh chị em là anh Bùi Văn N, chị Bùi Thị N, chị Bùi Thị M và chị Bùi Thị N.
Anh Bùi Văn N (anh trai anh N), khởi kiện yêu cầu anh N phải trả lại diện tích 6.785m2 đất, tại Thửa đất số 13; Tờ bản đồ số 02 do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình cấp cho anh Bùi Văn N ngày 01/02/1991, hiện nay anh N đang sử dụng là của bố mẹ anh N khai phá từ những năm 1976, bố mẹ và các anh chị em sống trên mảnh đất này ổn định và không có tranh chấp với ai.
Năm 1996 anh N lập gia đình, sau đó hai vợ chồng ra ở riêng. Đến năm 2008 anh N quay về ở cùng chăm sóc bố, mẹ khi già yếu cho đến khi chết, còn anh N từ năm 1993 lấy vợ đi ở rể và không sống chung cùng bố, mẹ cho đến nay. Hàng năm anh đều có nghĩa vụ nộp thuế quyền sử dụng đất với Nhà nước. Trước khi bố anh mất đã làm đơn khởi kiện yêu cầu cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Ở chứ không phải anh N, Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph cũng xác định việc cấp bìa cho anh N là không đúng đối tượng nên anh N không đồng ý trả lại đất cho anh N.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Bùi Thị M trình bày: Chị là em gái của anh Bùi Văn N và anh Bùi Văn N. Diện tích đất tranh chấp 6.785m2 chị cũng thừa nhận là của bố, mẹ chị là ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H khai phá từ trước những năm 1980. Khi còn sống cùng bố, mẹ chị đã có công sức đóng góp để xây dựng ngôi nhà sàn và chị cũng nhất trí với quan điểm của anh N là đồng ý chia cho anh N một ngôi nhà sàn và 1.000m2 đất.
- Chị Bùi Thị N và chị Bùi Thị N trình bày: Chị N và chị N đều thống nhất với lời khai của anh Bùi Văn N và có đơn đề nghị không có yêu cầu, đòi hỏi gì về diện tích đất có tranh chấp, đồng thời từ chối tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Chị Bùi Thị Ch trình bày: Chị là vợ của anh Bùi Văn N. Chị và anh N kết hôn năm 1996. Đến năm 2008 do chị Bùi Thị M (em chồng chị) muốn đi làm ăn xa, có nói với hai vợ chồng chị quay về chăm sóc bố, mẹ nên hai vợ chồng chị lại quay về sống cùng bố, mẹ từ đó cho đến nay, hàng năm anh N đều có nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Về nguồn gốc đất có tranh chấp chị cũng khẳng định là của bố, mẹ chồng chị là ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H khai phá, chị Ch từ chối tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph - Người đại diện theo ủy quyền ông Vũ Đình B và ông Lê Xuân H trình bày:
Sau khi có đơn khiếu nại của ông Bùi Văn Ở năm 2014 (bố anh N) về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Bùi Văn N. Ủy ban đã tiến hành thanh tra về nguồi gốc, cũng như quá trình sử dụng đất kết quả cho thấy:
Khoảng năm 1976 gia đình ông Bùi Văn Ở đã canh tác sử dụng diện tích 6.785m2 đất tại xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, gia đình ông Ở sống ổn định và không có tranh chấp với ai.
Năm 1990 Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S đã đo đạc đất, lập thủ tục kê khai, quy chủ đã xẩy ra sai sót. Theo phong tục tập quán hộ gia đình lấy tên con thứ nhất là tên của hộ gia đình, gia đình ông Ở thường gọi là “Hộ gia đình ông N”. Do vậy, khi lập thủ tục kê khai, quy chủ đã lấy tên là ông Bùi Văn N. Ngày 01/02/1991 ông N được Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cũ (nay là Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Thửa đất số: 13, Tờ bản đồ số 2, diện tích 6.785m2. Năm 1993 ông N xây dựng gia đình đi ở rể (xã khác) không sống chung với gia đình ông Ở tại thửa đất nêu trên, nhưng không giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ở. Năm 2011 ông Ở phát hiện thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh N không đúng nên đã làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã hòa giải nhưng không thành nên ông Ở tiếp tục làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Bùi Văn Ở chứ không phải con trai ông là anh Bùi Văn N.
Ngày 30/11/2016 Phòng tài nguyên và môi trường có Tờ trình số: 86 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Bùi Văn N.
Ngày 09/12/2016 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph Quyết định số: 3317 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng anh N không chấp hành. Nên ngày 20/12/2016 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph ra Quyết định số 3430/QĐ - UBND về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Bùi VănN.
Ngày 27/12/2016 anh Bùi Văn N có đơn khiếu nại. Ngày 01/02/2018 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph ra Quyết định số 232/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 3317/QĐ-UBND, ngày 09/12/2016 và Quyết định số 3430/QĐ-UBND ngày 20/12/2016 của Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, với lý do: Hộ gia đình không thống nhất được việc cử người đại diện cho hộ gia đình đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 05/11/2018 Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Cao Ph trả lời khiếu nại của anh Bùi Văn N với nội dung: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Bùi Văn N do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hòa Bình cấp vẫn còn nguyên giá trị pháp lý.
Ngày 24/5/2019 Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph có Công văn trả lời Tòa án nhân dân huyện Cao Ph việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 016884, thửa số 13, tờ bản đồ 02; Diện tích 6.785 m2 do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cấp ngày 01/02/1991 mang tên ông Bùi Văn N tại xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình là sai đối tượng và tại phiên tòa một lần nữa, Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph cũng khẳng định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cũ cấp cho anh Bùi Văn N không đúng đối tượng.
Về kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, ngày 18/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cao Ph cho thấy:
- Theo nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Thửa đất số 13, Tờ bản đồ số 2 do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình (cũ) cấp ngày 01/02/1991 có diện tích 6.785m2.
- Diện tích đo đạc thực tế là 6.038,8m2, tại Thửa đất số 13, Tờ bản đồ số 09, gồm 2.000m2 đất ở và 4.038,8m2 đất vườn, (Giảm 746,2m2).
Tài sản trên đất gồm có:
- Nhà sàn+ bếp, tiện tích sử dụng 11,6 x 8,1m = 93,96m2;
- Nhà cấp 4 xây dựng năm 2005, diện tích sử dụng 7,8 x 4,8m = 37,44m2;
- Bếp, diện tích sử dụng 3 x 3,4 = 10,2m2;
- Chuồng gà, diện tích 4,6 x 5,4m = 25,92m2;
- Chuồng lợn, diện tích 4, 4 x 2, 6m = 7,26m2;
- Bể nước (1): 2,65 x 1, 9 x 1,12m = 5, 63m3;
- Bể nước (2): 2,7 x 1,66 x 1,3m= 5, 82m3;
- Bể nước (3): 1,48 x 0,94 x 0,7 = 0,97m3.
- Mía: 66 dài = 9.460 cây (đã đến kỳ thu hoạch);
- Bưởi 160 cây; Chuối 61 cây; Na 08 cây; Khế 02 cây; Trám đen 02 cây; Dâu da 02 cây; Mận 02 cây; Cau 04 cây; Vải 01 cây; Táo 01 cây.
Kết quả định giá tài sản, ngày 28/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình:
Tổng giá trị tài sản, gồm Đất và tài sản trên đất là 605.006.654đ (Sáu trăm linh năm triệu, không trăm linh sáu nghìn sáu trăm năm mươi tư đồng), trong đó:
- Đất ở: 2.000m2 x 150.000đ/m2 = 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng);
- Đất vườn: 4.038,8m2 x 60.000đ/m2 = 242.628.000đ (Hai trăm bốn mươi hai triệu sáu trăm hai mươi tám nghìn đồng);
- Công trình xây dựng trên đất: 38.801.573đ (Ba mươi tám triệu tám trăm linh một nghìn năm trăm bảy mươi ba đồng);
- Cây cối hoa màu trên đất: 23.577.081đ (Hai mươi ba triệu năm trăm bẩy mươi bảy nghìn không trăm tám mươi mốt đồng).
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Ph tại phiên tòa:
- Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể như: Thu thập tài liệu chứng cứ theo đúng quy định, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đúng thời hiệu và thẩm quyền giải quyết vụ án, các quyền và nghĩa vụ của đương sự đã được Tòa án thực hiện đầy đủ, tuy nhiên vụ án còn kéo dài so với luật định.
- Viện tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử;
- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, về phía nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của họ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử:
- Căn cứ Điều Điều 100; Điều 106; Điều 166 Luật đất đai năm 2013. Bác đơn khởi kiện của anh Bùi Văn N - Về chi phí tố tụng: Căn cứ vào Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự buộc anh N phải chịu toàn bộ chi phí thẩm định tại chỗ.
- Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật TTDS và khoản 3, Điều 26 Nghị quyết 326, ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc anh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Phần tranh luận: Các đương sự không có ý kiến gì tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, bị đơn có nơi cư trú tại: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Ph. Theo quy định tại khoản 9 Điều 26; Điều 35 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn anh Bùi Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Bùi Thị N, Chị Bùi Thị N, chị Bùi Thị Ch có đơn từ chối tham gia tố tụng. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp lấy lời khai của đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ, thẩm định, định giá tài sản, tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết xét thấy vụ án dân sự nêu trên có liên quan đến quyết định cá biệt là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình), cấp cho ông Bùi Văn N ngày 01/02/1991 nên ngày 02 tháng 8 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Cao Ph đã căn cứ vào khoản 4 Điều 34, 41 BLTTDS và Điều 31, khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính, Quyết định chuyển vụ án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 26 tháng 8 năm 2019 Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình; Căn cứ vào Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự Quyết định chuyển vụ án lại cho Tòa án nhân dân huyện Cao Ph giải quyết theo thẩm quyền.
Do vậy, về thủ tục tố tụng, Thẩm phán đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Văn N đòi anh Bùi Văn N trả lại diện tích đất 6.785m2 tại thửa đất số 13; Tờ bản đồ số 2 do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình (Cũ) cấp ngày 01/02/1991 nay là thửa đất số 13; Tờ bản đồ 09; Diện tích 6.038, 8m2, địa chỉ: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình Hội đồng xét xử nhận thấy: Về nguồn gốc đất tranh chấp các bên đương sự đều thừa nhận là của bố, mẹ anh Bùi Văn N, ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H khai phá từ trước những năm 1976, trên đất có trồng cây cối, hoa màu và làm nhà Sàn kiên cố trên đất, ông Ở, bà H sống ổn định và không có tranh chấp với ai, khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh N mới 21 tuổi, vẫn phải sống chủ yếu phù thuộc vào bố, mẹ. Sau khi anh N được Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991 thì đến năm 1993 anh N đi lấy vợ ở rể xã khác và sống từ đó cho đến nay. Hàng năm anh N không có nghĩa vụ tài chính nộp thuế đất với Nhà nước. Khi anh Bùi Văn N (em trai anh N) quay về làm nhà trên đất, anh N cũng không có ý kiến gì.
Sau khi ông Bùi Văn Ở phát hiện thấy việc Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối tượng nên ông Ở đã có đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã, Ủy ban đã tiến hành hòa giải nhưng không thành ông Ở tiếp tục làm đơn khiếu nại lên Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph. Kết quả thanh tra cho thấy, việc ông Ở khiếu nại là có căn cứ nên Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph đã ra quyết định thu hồi và quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Bùi Văn N. Sau khi anh N có khiếu nại, Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph lại ra quyết hủy quyết định thu hồi và hủy quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do: Hộ gia đình không thống nhất được việc cử người đại diện cho hộ gia đình đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để có căn cứ giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Cao Ph đã có công văn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph cho biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cũ (nay là Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph) cấp năm 1991 mang tên ông Bùi Văn N có giá trị pháp lý không. Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph đã có văn bản trả lời và khẳng định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp mang tên ông Bùi Văn N là không đúng đối tượng. Quá trình Tòa án thu thập chứng cứ, đã yêu cầu Chi nhánh văn phòng đất đai huyện Cao Ph cung cấp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho anh Bùi Văn N, nhưng hồ sơ chỉ thể hiện có Sổ mục kê và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Bùi Văn N.
Từ những căn cứ nêu trên cho thấy: Việc anh N khai Thửa đất số 13, Tờ bản đồ 02, diện tích 6.785m2 là của bố, mẹ anh cho anh nhưng anh N không đưa ra được giấy tờ, tài liệu nào để chứng minh như giấy ủy quyền hay giấy tờ tặng cho quyền sử dụng đất của ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H. Tại phiên tòa anh N cũng thừa nhận tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo phong tục tập quán vẫn thường gọi là “Hộ gia đình ông Bùi Văn N” chứ không phải là “Hộ gia đình ông Bùi Văn Ở”. Như vậy, cho thấy kết quả thanh tra, cũng như ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình xác định việc Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S cũ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Bùi Văn N là không đúng đối tượng là có cơ sở, nên không có căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện đòi lại đất của anh Bùi Văn N.
Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình) cấp cho anh Bùi Văn N ngày 01/02/1991 là chưa đúng đối tượng. Vì vậy, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Cao Ph kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Bùi Văn N theo quy định của pháp luật.
Ông Bùi Văn Ở và bà Bùi Thị H khi chết không để lại di chúc. Do vậy, nếu các đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn (Bùi Văn N) không được chấp nhận. Căn cứ vào Điều 157 của Bộ luật tố tụng dân sự anh Bùi Văn N phải chịu toàn bộ chi phí đã nộp là 7.998.400 đ (Bảy triệu, chín trăm chín mươi tám nghìn, bốn trăm đồng).
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng và án phí, lệ phí Tòa án. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận nên buộc anh Bùi Văn N phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 100; Điều 106; Điều 166; Điều 203 Luật đất đai năm 2013.
1. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Bùi Văn N về việc yêu cầu anh Bùi Văn N trả lại diện tích đất 6.785m2 tại Thửa đất số 13, Tờ bản đồ số 2; Địa chỉ: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01684, Thửa đất số 13, Tờ bản đồ 02, Diện tích 6.785m2; địa chỉ: Xóm Q, xã Tân Ph, huyện Cao Ph, tỉnh Hòa Bình do Ủy ban nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Hà Sơn Bình cấp cho ông Bùi Văn N ngày 01/2/1991.
2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 144, 147 và Điều 161 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc anh Bùi Văn N phải chịu 300.000 đ (Ba trăn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí anh Bùi Văn N đã nộp, theo biên lai thu số 0004495 ngày 20 tháng 6 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
3. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án 02/2019/DSST ngày 06/12/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 02/2019/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Phong - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về